Trong Tụng Tây Hồ phú (bài phú ca tụng Hồ Tây) của Nguyễn Huy Lượng, có cả một “bảo tàng sống động” về lịch sử, văn hóa, địa chí Hồ Tây mà ta cần tiếp tục khám phá.
Khám phá Hồ Tây (kỳ 14 & hết): Cần một bảo tàng về Hồ Tây
Khám phá Hồ Tây (kỳ 13): 'Bảo tàng sống động' về Hồ Tây trong bài thơ 'độc vận'
Khám phá Hồ Tây (kỳ 12): Phan Kế Bính và 'Đêm trăng chơi Hồ Tây'
Khám phá Hồ Tây (kỳ 11): 'Ổi Quảng Bá, cá Tây Hồ'
Khám phá Hồ Tây (kỳ 10): Nhà tranh, gốc liễu của Thạch Lam bên Hồ Tây
Khám phá Hồ Tây (kỳ 9): Kỳ thú làng hoa thủy tiên, cá cảnh
Khám phá Hồ Tây (kỳ 8): Chuội tơ ở Nghi Tàm
Khám phá Hồ Tây (kỳ 7): Từ Nhật Chiêu đến Nhật Tân
Khám phá Hồ Tây (Kỳ 6): Từ am cung nữ đến Sở Thủy phi cơ và Hãng phim
Khám phá Hồ Tây (kỳ 5): Từ lũy bảo vệ thành đến bến tắm
Khám phá Hồ Tây (kỳ 4): Lĩnh Bưởi - tuyệt phẩm kinh thành
Khám phá Hồ Tây (kỳ 3): Kẻ Bưởi, từ hội thề đến hội đèn
Khám phá Hồ Tây (kỳ 2): Từ cung điện đến tàu điện và rượu sen
Khám phá Hồ Tây (kỳ 1): Thấm đẫm văn hóa từ những tên gọi
Năm 1801, chúa Nguyễn Ánh đem thủy quân đánh kinh đô Phú Xuân, vua Tây Sơn là Nguyễn Quang Toản phải bỏ chạy ra Thăng Long. Ở đây Nguyễn Quang Toản sai đắp đàn Phương Trạch tại Hồ Tây để làm lễ tế trời đất. Sai Nguyễn Huy Lượng là Chương lĩnh hầu, giữ chức quan Phụng nghị bộ Lễ, soạn một bài phú, đọc trong lễ tế. Và bài Tụng Tây Hồ phú được Nguyễn Quang Toản rất tâm đắc nên ban thưởng cho Lượng hai quan tiền đồng.
Tụng Tây Hồ phú có câu ngắn, câu dài, lại độc vận (vần hồ) khiến người đọc say mê, rù rì đọc từng chữ, từng câu. Dư âm của nó quấn quýt mãi không rời. Những từ láy lần đầu phát ra từ bài văn chẳng bao giờ lặp lại đã mô tả mọi khía cạnh của Hồ Tây, từ lịch sử, cảnh đẹp đến các truyền thuyết cổ xưa, sản vật...
Bài phú dài 86 liên này được dân Thăng Long truyền miệng, và sợ quên, nên ai ai cũng chép bài thơ này, khiến giá giấy và giá mực tăng vọt.
Lạ thay cảnh Tây hồ!
Lạ thay cảnh Tây hồ!
Trộm nhớ thuở đất chia chín cõi,
Nghe rằng đây đá mọc một gò
Trước Bạch Hồ vào ở đó làm hang, Long vương trổ nên vùng đại trạch,
Sau Kim Ngưu do vào đây hóa vực, Cao vương đào chặn mạch hoàng đô
Tiếng nghe gọi Dâm Đàm, Lãng Bạc,
Cảnh ngầm in tinh chử, băng hồ…
Sắc rờn rờn nhuộm thức lam xanh, ngỡ động bích nổi lên dòng lẻo lẻo,
Hình lượn lượn uốn vòng trăng bạc, tưởng vầng ngân rơi xuống mảnh nhò nhò
Dư nghìn mẫu nước trời lẫn sắc,
Trải bốn bên hoa cỏ nhiều mùa.
Áng đất phơi mỏ phượng còn in, kể rằng đài thượng nguyệt
Vũng nước hút hàm rồng chẳng cạn, người gọi trản trung tô
Tòa thạch tháp nọ nơi tiên để báu,
Chôn thổ đôi kia chỗ khách chôn bùa.
Đền Mục Lang hương lửa chẳng rời, tay lưới phép còn ghi công bắt hổ
Quán Trấn Vũ nắng mưa nào chuyển, lưỡi gươm thiêng còn để tích giam rùa.
Kề bến nọ, quán Thiên Niên lớp lớp
Cảnh ngàn kia, ghềnh Vạn Bảo nhấp nhô
Tòa Kim Liên sóng nổi mùi hương, chùa Trấn Quốc tưởng in vùng tĩnh phạn
Hàng cổ thụ gió rung bóng lục, tràng Phụng Thiên nhận sẵn thú Nghi, Vu
Dấu Bố Cái rêu in nền phủ
Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa
Trông mơ màng dường đỉnh Thứu nơi kia, vài tổ thước cuối làng kêu chích chích,
Nghe phảng phất ngỡ động Đào mai nọ, mấy tiếng gà trong trại gáy o o
Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút,
Ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ì ồ,
Rập rềnh cuối bãi Đuôi nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm,
Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa tháp cao tăng còn hé cửa tò vò.
Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi canh ghẹo hai phường dệt gấm
Sen vũng nọ nẩy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò.
Cầm ve gẩy lầu thư ánh ỏi,
Mõ cuốc khuya án kệ rì rù.
Gò Châu Long khi ngọn gió đưa quanh, hồi thú cổ thẳng kề bên mái Trúc
Non Phục Tượng lúc vầng trăng hé nửa, tiếng hàn châm nghe cách giải sông Tô
Người ngoạn cảnh thẩn thơ đòi đoạn,
Khách thâu nhàn lai láng từng khu.
Mảnh áo tơi lốp xốp trong mưa, ca Thanh Thảo quyến đàn trâu gã Nịnh
Con thuyền trúc lân la trước gió, khúc Thương Lương đưa gánh củi chàng Chu
Vầy cuộc ẩn, mọi nghề chẳng thiếu,
Mượn thú vui bốn bạn gồm no.
Cảnh Khán Sơn chưa gác cột cờ, lòng thơ đã bôi hồi ban lãnh thỏ
Làng Võng Thị còn đông tiệc rượu, tiếng cầm đà não nuột buổi tà ô.
Khách Ngô Sở chợ tây ngồi san sát,
Người Hy Hoàng song bắc ngáy phi pho.
Bến giặt tơ người vốc nước còn khuya, gương thiềm đựng trong tay lóng lánh,
Vườn hái nhị kẻ giày sương hãy sớm, túi xạ rơi dưới gót thơm tho .
Ngang thành thị, ghé yên hà một thú,
Dọc phố phường, tung phong nguyệt hai kho.
Gió hiu hiu dòng Nhị thủy đưa lên, lồng hơi mát tới chùm hoa khóm trúc
Trăng vằng vặc mái Tam Sơn rọi xuống, đớp bóng trong từng lũ cá, đàn cò.
Phong cảnh cũ nhiều nơi thắng lãm,
Triều đại xưa mấy lớp thanh ngu.
Tựa bóng hoa đặt quán quan ngư, kia đời Gia Khánh
Đè mặt sóng đem đường dụ tượng, nọ thuở Kiền Phù
Trải Trần trước đã nhiều phen xe ngựa,
Tới Lê sau càng lắm độ tán dù.
Trộm nhớ thiên bát vịnh du hồ, trong tỷ hứng cũng ngụ lời quy phúng,
Lại nhớ khúc liên ngâm thưởng nguyệt, lúc tiếu đàm thường thỏa ý giao phu.
Tòa đá nọ hãi ghi câu canh họa,
Dòng nước kia dường nổi chén tạc thù.
Năm sau từ nổi bụi tiêu tường ba thước nước khôn cầm màu hiệu khiết,
Buổi ấy cũng góp phần tang hải, sáu thu trời bao xiết nỗi hoang khô.
Hình cây, đá, mưa trôi gió giạt,
Sắc hoa, chim, mây vẩn sương mù.
Chốn tri đàm lâm bợn vẻ thanh quang, xuôi ngược những vẫy đuôi khoa đẩu
Nơi phạn vũ để che màu sảng lãng, dọc ngang treo mắc võng tri thù
Hương cổ miếu đôi chòm lạnh lẽo,
Đèn viễn thô mấy ngọn lù mù.
Kênh đâu đâu đều chảy đến trung sa, lầu túc điểu gió còn sớm quạt,
Sen chốn chốn đã bay về Tây Vực vũng du ngư nguyệt hãy tối mò.
Kêu trị, loạn, đau lòng con đỗ vũ
Gọi công, tư, mỏi miệng cái hà mô
Lũ cây mây lầm tưởng bóng nghê, thơ Thất nguyệt thở than cùng mục thụ
Khách điếu nguyệt biếng tìm tăm cá, chữ Tam mô bàn bạc với tiều phu
Nghe xóm nọ rù rì ve nhặng,
Ngắm ghềnh kia thấp thoáng trai cò.
Thú cao lưu chếch mác thế cờ, người nhạo thủy ôm cầm khi rạng quế,
Màu yên cảnh bâng khuâng hồn rượu, khách đăng đài gác bút buổi bay ngô
Chiêu phong vị xem dường quạnh quẽ,
Dấu đồ thư ngắm hãy mơ hồ.
Dưới cầu vồng nước chảy mênh mông, đường xưa đưa ngựa,
Trên thành trĩ đá xây lởm chởm, bến cũ gọi đò.
Trước cố cung treo nửa mảnh gương loan, vừng trăng he hé,
Sau cổ tự gửi mấy phong da ngựa, đám cỏ lù rù.
Lớp canh dịch người xưa man mác,
Vẻ tiêu lương cảnh cũ thẹn thò.
Áng phồn hoa vì cảnh muốn phô người, người trải khi vật đổi sao dời, cảnh phải chiều người buổi ấy,
Trời thanh lãng có người mến cảnh, cảnh có sẵn nước trong trăng sáng, người nên phụ cảnh này ru?
Vầng trăng nọ buổi tròn buổi khuyết;
Ngọn nước kia nơi hoắm, nơi nhô
Tới Mậu Thân từ rõ vẻ tường vân, sông núi khắp nhờ công đãng địch;
Qua Canh Tuất lại tưới cơn thời vũ, cỏ cây đều gội đức triêm nhu
Vũng trì chiểu nước dần dần lặng;
Nơi đình đài hoa phới phới đua.
Chốn bảy cây, còn mấy gốc lăng vân, chẳng tùng bách cũng khoe hình thương lão;
Nơi một bến đã đóng đoàn hý thủy, tới uyên ương đều thỏa tính trầm phù.
Vẻ hoa thạch châu thêu, gấm dệt,
Tiếng trùng cầm, ngọc gõ, vàng khua.
Bãi cỏ non trâu thả, ngựa buông, nội Chu đã lắm người ca ngợi;
Làn nước phẳng kình trầm, ngạc lặn, ao Hán nào mấy trẻ reo hò
Mặt đất đùn này thóc, này rau, rầu lòng Cô Trúc,
Mặt nước chảy nọ dòng, nọ bến, mặc chí Sài, Do.
Cây quán kia còn đứng dậy thần uy, đoàn Mán tới dám khoe lời “Tây hữu”
Sen chùa nọ lại bay về Phật cảnh, lũ Ngô về từng niệm chữ Nam mô.
Dấu linh dị rành rành vẫn sáng,
Mạch hậu nhân dằng dặc bao rò.
Mặt thành xưa đem lại thế kim thang, đất xây phẳng lặng;
Cánh hàn cũ sửa ra hình chỉ trụ đá xếp xô bồ.
Ghé vùng danh nẻo lợi bấy lâu, cảnh tuy rằng nhỏ;
So nước trí non nhân mấy chốn, cảnh đã chi thua.
Trải mấy thu từng tựa bóng tàn xanh, thâu cảnh đã vào trong vũ trụ.
Song nghìn dặm đã xa vời bệ tía, góp cảnh còn gọi chốn biên ngu,
Tuy thú vị đã giãi bày ra đó
Sóng thanh dung còn trang điểm lại cho.
Nay mừng
Trời phù chính thống,
đất mở hoành mô.
Quyền tạo hóa tóm vào trong động tác;
Khi càn khôn vận lại trước đô du
Nền hoàng thành đặt vững Long Biên, ngôi bắc cực muôn phương đều cùng hướng;
Nền bắc trạch xây kề Ngưu chử, cảnh Tây hồ trăm thức lại phương phu
Chòm hủ thảo chưa qua tuần đom đóm,
Ánh tường vân đà cách độ tua rua.
Ngắm nguyệt, chiêm từ cấn tượng bốn hào, ống âm dương đà quét bụi;
Xem tuế luật đến Di tân bảy tấc, lò thiên địa mới bay tro
Cơ vãng phục lạnh thôi lại ấm;
Lẽ doanh thâu bớt đã lại bù.
Dưới lục âm vừa sinh khí nhất dương vạn phẩm đã nhờ ơn khôn tạo;
Trên cửu đạo lại tề ngôi thất chính, bốn mùa đều theo hướng đẩu khu.
Hương khâm kính xông miền hiệu đãng
Rượu cung kiền thấm cõi linh u.
Áng năm mây bày ngọc bạch đôi hàng, thảo mộc hãy ca công Thang, Vũ;
Vang chín bệ nổi tiêu thiều mấy khúc, điểu thú đều vũ đức Đường, Ngu.
Vẻ hoa lẩn dấu cờ năm thức,
Mặt nước in bóng giáo ba ngù.
Trước huân phong phảng phất cung đàn, làn thâm thủy muốn vái lên ngũ bái,
Dưới ngọ nhật vang lừng tiếng trúc, hình viễn sơn mong rạp xuống tam hô.
Lễ nhạc ấy nghìn thu ít thấy,
Phong cảnh này mấy thuở nào so.
Trên dưới đều rồng mây cá nước phải duyên, giọt vũ lộ tươi đôi hàng uyên lộ;
Gần xa cũng bờ cõi non sông một mối, tấm đan thành dung khắp lũ nghiêu sô
Hơi yêu mị quét dưới cờ thanh đạo,
Áng tường quang tuôn trước ngọn huyền lô.
Rặng đầu gềnh người mượn chữ vu viên răn loài hồng nhạn;
Ca cuối vũng kẻ ngâm tại chử, nhủ lũ ê phù.
Lời ca ngợi, tưởng ngồi trong Chu Nhã
Điệu ngâm nga, nghe đứng giữa Nghiêu cù
Ngẫm nay đà vui thú tạc canh, đành chốn chốn cũng ca đồng vũ tẩu;
Nhớ trước đã thỏa loài động thực, hẳn đâu đâu đều bặt quỷ êm hồ.
Nay lệnh tiết đã tin điềm thái lãng;
Xin thánh nhân càng ghín chữ dự du
Ngọn nguồn tuôn ràn rụa mái kia ghềnh, đàn chiếu thủy chia dòng Kinh, Vị;
Chòm cỏ mọc tần vần bên nọ miếu, trống thôi hoa rẽ khóm huân, do
Nhận giá sắc, xét dân phong cần, nọa;
Ngắm phong quang, soi vật tính thanh, ô.
Chốn chiểu đài, xem cá nhảy chim bay, thâu sĩ lộ nơi thông nơi trệ;
Miền thôn ổ, lắng chim kêu gà gáy, lượng nhân gian nơi háo, nơi trù.
Tinh u uẩn khắp bày trên thị thính,
Hiệu trị bình đành sắp dưới tề tu.
Nơi mạch kia dân tựa, ấy làm trời, hang chuột ẩn há chừa nơi cỏ khuất.
Bờ liễu nọ kẻ xây, đà vững đất, lỗ kiến đùn khôn chuyển buổi nguồn xô
Đem phong cảnh lại một bầu chi nhỏ,
Mở thái bình ra bốn bể mới to.
Tôi nay
Hổ mình thiển lậu,
Dại trí sơ thô
Dư một kỷ yên bề hu lịch
Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du.
Trước phượng đàn đứng sánh hàng loan, trông hồ cảnh tiến một chương ly ngữ
Bên ngự đạo ngửa trông vừng nhật, nổi thanh sơn mừng muôn kỷ dao đồ
(Bản phiên âm quốc ngữ của Thư viện Khoa học xã hội)
Đền Quán Thánh nhìn về Hồ Tây. Ảnh tư liệu
Năm 1802 triều Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Huy Lượng bị bắt khi đội quân nhà Tây Sơn rút khỏi Bắc thành. Trung thần Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích bị giải đến Văn Miếu làm nhục. Ngô Thì Nhậm bị đánh trọng thương về đến nhà thì chết. Tổng trấn Bắc thành là Nguyễn Văn Thành định giết Lượng nhưng có người khuyên không nên giữ lại dùng vì Lượng có tài văn chương. Nghe lời khuyên, Nguyễn Văn Thành không giết mà cho Lượng làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định).
Nhân Nguyễn Ánh lên ngôi vua, Nguyễn Văn Thành tổ chức lễ mừng ở Bắc thành đã sai Nguyễn Huy Lượng làm bài văn tế các tướng sĩ nhà Nguyễn trận vong. Bài văn tế do Lượng soạn rất lâm ly, tụng ca công trạng của tướng sĩ chúa Nguyễn đã tiêu diệt nhà Tây Sơn thế nào.
Khi đọc Tụng Tây Hồ phú, Phạm Thái vốn phù Lê chống Tây Sơn, nể phục văn chương của Lượng song ghét Lượng từng phù Lê nay xu thời phù Tây Sơn đã họa lại và lấy tên là Chiến Tụng Tây Hồ phú với cùng số câu, cùng vần. Về hình thức, Chiến Tụng Tây Hồ phú đối chọi từng câu từng chữ với Tụng Tây Hồ phú, về nội dung thì bác bỏ, có khi thóa mạ. Phạm Thái là con Trạch Trung hầu, một cựu thần của nhà Lê khởi binh chống Tây Sơn nhưng thất bại. Tiếp tục lý tưởng của cha, Phạm Thái bấy giờ mới 20 tuổi, đi giao du sơn thủy để kết giao với người cùng chí hướng. Gặp Nguyễn Đoàn, một nhân vật chống đối Tây Sơn, ông viết bài Quân yếu (Cốt yếu của việc binh) bàn luận thế đánh và giữ trong tình hình ấy.
Sau này, một vài nhà phê bình đã lên án Phạm Thái là “phản động, mù quáng chống Tây Sơn đến cùng” nên mới viết Chiến Tụng Tây Hồ phú.
Không bàn những chuyện xung quanh, Tụng Tây Hồ phú luôn được các nhà nho đương thời đánh giá cao và cho là văn chương cẩm tú. Cho đến ngày nay, Tụng Tây Hồ phú vẫn nguyên vẹn giá trị nghệ thuật.
Nhưng thêm vào đó nó còn có giá trị lịch sử. Bởi khi đọc bài phú có thể hình dung Thăng Long qua các giai đoạn và Hồ Tây thế nào. Ví dụ đọc câu Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút ta biết Thạch Khối xưa có lò nung vôi và các lò vôi nằm sát đê Yên Phụ (đoạn đầu đường Thanh Niên hiện nay) nhưng do cát bồi và sông Hồng đoạn này đã đổi dòng.
Lò Thạch Khối khói tuôn nghi ngút,
Ghềnh Nhật Chiêu sóng giật ì ồ
Rập rềnh cuối bãi Đuôi nheo, thuyền thương khách hãy chen buồm bươm bướm,
Thanh lảnh đầu hồ Cổ Ngựa tháp cao tăng còn hé cửa tò vò.
Chày Yên Thái nện trong sương chểnh choảng
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co.
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ, thoi canh ghẹo hai phường dệt gấm
Sen vũng nọ nẩy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò.
Ngoài nghề tằm tang, dân Nghi Tàm còn có nghề bắt cá, sâm cầm ở Hồ Tây. Trong bài Tụng Tây Hồ phú, Nguyễn Huy Lượng viết: “Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co”.
Cuối thế kỷ 18 nghề dệt lĩnh ở Trích Sài, Bái Ân phát triển. Tụng Tây Hồ phú viết:
Liễu bờ kia bay tơ biếc phất phơ
Thoi oanh ghẹo hai phường dệt gấm
Võng Thị là một phường cổ của kinh thành Thăng Long, có nghĩa là chợ lưới. Gần hồ có chợ lưới nhưng không mấy người Võng Thị làm nghề đánh cá mà họ chuyên tâm dệt lĩnh và làm nông vì làng có ít ruộng sát mép nước. Cạnh đình làng có bến đò Cổ Đô, thời Lê là một bến lớn, trên bến dưới thuyền buôn bán sầm uất. Từ đây hàng ngày có đò sang xóm Cung của làng Tây Hồ. Trong Tụng Tây Hồ phú, về làng Võng Thị, Nguyễn Huy Lượng viết:
Làng Võng Thị còn đông tiệc rượu, tiếng cầm đà não nuột buổi tà ô.
Khách Ngô, Sở chợ Tây ngồi san sát, người Hy Hoàng song Bắc ngáy phi pho...
Làng rượu hóa thành chợ rượu và còn gì thú bằng uống rượu ngay tại lò nấu. Và lại có cả cầm ca “đưa cay'', cùng với ráng chiều nhuộm màu cho rượu, thì không còn gì bằng.Và Võng Thị cũng cực kỳ ngát hương lãng mạn:
Bến giặt tơ người bốc nước còn khuya, gương thiềm định trong tay lóng lánh.
Vườn hái nhị kẻ giày sương hãy sớm, túi xạ rơi dưới gót thơm tho...
Bức tranh Hồ Tây hơn 200 năm trước cứ lặng lẽ trải ra.
Sen Hồ Tây vào văn chương, khảo cứu Nói đến sen thì ít nơi nào hơn được sen Hồ Tây. Sen ở đây quý vì bông lớn, khi nở to như hai bàn tay mở, có trăm cánh (còn được gọi là bách diệp) xếp lớp bao bọc lấy nhụy, đài và gạo, giữ cho sen mùi thơm thuần khiết, ngát đượm. Sen Hồ Tây cũng có một “lịch sử” trong văn chương. Người đầu tiên làm thơ về sen Hồ Tây là vua Lê Thánh Tông, ông có bài Hoa sen bằng chữ Hán và Hoa sen non bằng chữ Nôm. Hoa sen non không chỉ đẹp mà thấy tâm hồn lãng mạn bay bổng của một ông vua có tài và tâm. Sen trên Hồ Tây xưa. Trong ảnh là chùa Trấn Quốc nhìn từ đường Cổ Ngư. Ảnh tư liệu Dìu dịu Lam Điền ngọc mới tương, Hồ thanh, sắc ánh, mặt dường gương. Ngọc in làm dáng tiền sơ đúc, Chàm nhuộm nên màu, tán chửa giương. Lạt biếc mới khai mày Thái mẫu, Thắm hồng còn kín má Vương Tường. Khách thơ hứng nghĩ hiềm chưa đủ, Mười trượng hoa thì mười trượng hương. Sen với Hồ Tây như hình với bóng, gắn chặt với nhau. Trong Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ và Tang thương ngẫu lục của Nguyễn Án cùng viết về thú chơi của chúa Trịnh Sâm trong Trung thu năm 1774: “Ngày hôm đó chúa ngự trên ly cung Thụy Liên (sen ngủ). Dưới là sen, trên bờ là cây phù dung mắc đèn lồng. Nhạc công hoặc ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc hoặc ẩn mình dưới bóng cây, bến đá tấu nhạc”. Ở Nghi Tàm có ngôi miếu ven đường liên quan đến sen Hồ Tây là miếu Bà Cô. Tương truyền cô gái họ Đoàn này đi thuyền hái sen dâng lên phủ hành cung Thụy Liên của chúa Trịnh nhưng chẳng may thuyền bị đắm cô bị chết, dân Nghi Tàm cho là cô chết trẻ nên thiêng đã lập miếu thờ Tụng Tây Hồ phú của Nguyễn Huy Lượng có câu: “Sen vũng nọ nảy tiền xanh lác đác, lửa đóm ghen năm xã gây lò...”, câu thơ cho thấy sen trong bài phú là sen sau mùa Đông mới nhú lá lên khỏi mặt nước. Còn sen trong bài Thăm chùa Trấn Quốc của Phạm Quý Thích (1760-1825) là “Mười dặm hương sen theo gió thoảng” và “Giữa đám sen dày thuyền lướt mau”. Thượng kinh ký sự của đại danh y Lê Hữu Trác kể chuyện ông chữa bệnh cho chúa Trịnh ở biệt điện bên Hồ Tây và sen đã cho ông cảm xúc đến mức bật ra thơ. Chuyện cũ bên dòng sông Tô của Viên mai Nguyễn Công Chí chính là gia phả dòng họ Nguyễn Đình (làng Duyên Thái, huyện Thường Tín, Hà Nội) lập nghiệp ở phố Hàng Ngang từ thế kỷ 17. Dòng họ này không chỉ giàu có, nổi tiếng về sự hiếu học ở đất Thăng Long mà còn nổi tiếng về khéo léo trong nghệ thuật ướp chè sen Tây Hồ. Đầu thế kỷ 20, dân các làng Tây Hồ, Nghi Tàm, Quảng Bá mua hoa sen của các chủ thầu gánh vào chợ Đồng Xuân và phố xung quanh bán từng gánh lớn cho các gia đình lấy nhụy ướp chè sen và cho người chơi hoa. Trong cuốn Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20, về sen Hồ Tây, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Uẩn viết: “Trước đây ven hồ nhiều sen, về mùa Hạ sen mọc kín, lá xanh rờn, hoa đỏ bát ngát gió đưa hơi mát đượm hương thơm lừng”. Tuy nhiên, sen mọc nhiều nhất là ven bờ giáp các làng Nghi Tàm, Yên Phụ, Nhật Tân, Quảng Bá nhất là làng Tây Hồ vì đáy hồ không sâu, thoải thoải và ở đây còn có nhiều đầm và ao. Đấy vàng đây cũng đồng đen Đấy hoa thiên lý đây sen Tây Hồ Trong bài Sen Tây Hồ, nhà thơ Bằng Việt viết năm 1995 có câu: Ví thử hồ sen cạn nốt Làm gì cho thấy ngày xưa?... |
Nguyễn Ngọc Tiến (Thể Thao & Văn Hóa)
Bình luận của bạn