Bà "Sót điên"

Chủ nhật, 25/05/2025, 15:59 (GMT+7)

Chia sẻ

 Tản mạn của Việt Cường 

Thập niên 60-70-80 thế kỷ trước, khi mà khu vực Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục còn nhộn nhịp với quang cảnh của một bến tầu điện, một bến ô tô khách. Khi mà ở cuối phố Cầu Gỗ còn có một cái Nhà Tròn điều hành mạng lưới tầu điện, và khi mà ở chỗ này chưa mọc lên tòa nhà Hàm Cá Mập đầy tai tiếng. Lứa tuổi chúng tôi, những người sinh từ thập niên 40-50 trở về trước có nhiều kỷ niệm gắn bó với Bờ Hồ ở khu vực này.

Ngoài những trò câu tôm, câu cá thầu dầu ở ven hồ, chúng tôi còn rất ấn tượng với một khu đất có ngôi nhà bị đổ sập ở cuối con dốc Lương Văn Can. Ngôi nhà 3 tẩng này, thời Pháp thuộc là của một người Hoa cho ngân hàng Đông Dương thuê. Cuộc chiến giữa tự vệ Hà Nội và quân đội Pháp cuối 1946 đầu 1947 đã phá hủy ngôi nhà này.Sau ngày Tiếp quản, trên bãi đất đó có một quán nước của mẹ con bà Tộ béo lúc nào cũng đông khách. Tuy chỉ là một quán nước chè , nhưng có đầy đủ các thứ quà ăn vặt phục vụ khách qua đường. Đặc biệt là có món bánh tôm ăn với bún và rau sống.Nơi này vào những năm 80-90 cũng hình thành một bến xe đón khách đi Hà Đông. Mãi những năm gần đây khu đất này mới trở thành Trung tâm Văn hóa Hồ Gươm như bây giờ.

Tại ngã ba Lê Thái Tổ - Báo Khánh, đối diện với nhà hàng Thủy Tạ, có một ngôi biệt thự hai tầng, và một dẫy nhà ba gian rộng mang biển số nhà 6, thời Pháp thuộc là một bệnh viện tư của bác sỹ Phạm Văn Phán. Bên cạnh là ngôi biệt thự lớn có sân vườn cây cối, mang biển số nhà 8 phố Beauchamp, nhưng dân Hà Nội gọi là số 8 phố Bờ Hồ. Đó là nhà của viên chánh án Morché, sau ngày Nhật đảo chính Pháp, chủ nhà bị bắt, ngôi nhà bỏ hoang. Sau ngày cách mạng tháng Tám 1945, để đảm bảo bí mật và an toàn, một số cán bộ lãnh đạo của Việt minh đã trú ngụ ở ngôi nhà hoang này, trong đó Chủ tịch Hồ Chí Minh có lúc ở Bắc bộ phủ, có lúc cũng đến ở đây. Những ngày Toàn quốc kháng chiến, ngôi nhà này cũng bị đánh sập. Sau ngày Tiếp quản Hà Nội, nền của ngôi nhà này trở thành một sân vận động mi- ni của thanh niên Hà Nội thời ấy.Tôi đến đây chỉ để xem các đàn anh luyện tập xà đơn, xà kép và có cả môn đấm bốc nữa. Không biết sân vận động này do tổ chức nào quản lý, nhưng chỉ thấy dân Hà Nội gọi là sân Võ sỹ đoàn. Vật đổi, sao rời, miếng đất kim cương này, ngày nay là tòa nhà cao sừng sững bên cạnh hồ Gươm, mang tên Bảo Việt.

Đối diện với sân Võ sỹ đoàn ngày ấy là quầy bia hơi của nhà hàng Thủy Tạ. Quầy bia hơi này có từ rất sớm, khi mà bia hơi chưa phải là thứ nước giải khát phổ thông, được ưa chuộng như bây giờ. Thứ nước uống mà những người mới làm quen, chê là đắng ngắt và khai khai. Các cô Mậu dịch viên của Thủy Tạ có sáng kiến là bán một cốc bia hơi lại kèm một chén con si-rô lựu mầu đỏ. Uống kiểu "cốc - tai" như vậy quả nhiên là dễ uống hơn và dần dần, không cần phải pha thêm si-rô vẫn lao vào uống.

Những năm 80-90 những ai ở khu vực Cầu Gỗ, Đinh Tiên Hoàng, Báo Khánh Hàng Hành....đều biết: ở ngã ba Báo Khánh - Lê Thái Tổ có một bà già gầy gò, tóc bạc lặng lẽ ngồi bán những con búp bê do chính tay bà làm ra. Nỗi buồn và sự khổ đau lộ rõ trên khuôn mặt nhăn nheo của bà. Bà lấy dao cắt gọt những miếng xốp mà người ta bỏ đi thành các cô bé, cậu bé hay các ông già, bà già.Rồi bà lấy bút bi vẽ mắt vẽ mũi, sau đó khâu những mảnh vải đủ mầu sắc xin được ở các hiệu may, khâu thành quần, thành áo cho chúng. Những con búp bê cao tuổi nhưng bà lại cho mặc áo quần bằng vải có mầu sắc sặc sỡ, những búp bê trẻ con bà lại cho mặc áo quần mầu đen. Đường kim mũi chỉ thì ngay cả người khéo tay cũng phải phục vì đều và rất mịn. Các con búp bê điên điên đầy cá tính khiến các vị khách nước ngoài lần đầu tiên đến Hà Nội vô cùng thích thú. Con to bà bán bốn, năm dola, con nhỏ ba dola. Cách bán hàng của bà là tùy theo con to, con nhỏ mà bà giơ ba hay bốn ngón tay. Chỉ bấy nhiêu thôi nhưng khách nước ngoài cũng hiểu giá. Tây đầm nào mà mặc cả rẻ hơn là bà không thèm đáp lại. Có ngày bà bán được cả chục con nhưng có ngày ngồi ngáp từ sáng đến chiều rồi lại khoác cả mớ búp bê lên vai, lững thững đi bộ về nhà ở ngõ Hàng Hành. Bà ở với người em trai, nhà của bà là ở chân cầu thang. Dân Hàng Hành gọi là bà Sót "điên", trẻ con nhìn thấy bà là đồng thanh hô"Sót điên" rồi bỏ chạy. Có lẽ là do mọi người thường thấy bà cứ lẩm bẩm một mình và hay chửi vu vơ.

Hầu như không ai biết thời thiếu nữ bà Sót có một mối tình lãng mạn bên Hồ Gươm. Thời kỳ Hà Nội bị tạm chiếm, bà giúp việc cho một gia đình giầu có ở phố Cầu Gỗ. Ông chủ dù đã có vợ, con nhưng lại phải lòng cô gái quê vóc dáng nhỏ nhắn, tính tình thật thà, chăm chỉ. Lúc đầu cô chỉ biết ông chủ quý mến mình, nhưng cho đến một hôm cô đi ra mép hồ đổ rác (thời Pháp thuộc, thời tạm chiếm, các gia đình ở xung quanh hồ thường mang rác đổ ra mép hồ) đổ xong quay lại, cô run rẩy khi thấy ông chủ. Ông bảo đang đi tìm mua nhà cho cô để cưới cô làm vợ lẽ và cấm cô không được nói với kẻ ăn, người ở trong nhà.Rồi ông nhìn trước nhìn sau vội nắm tay cô, mắt nhìn đắm đuối sau đó bỏ đi vì sợ dân cùng phố đi hóng mát nhìn thấy. Từ đó cô chợt vui, chợt buồn, anh xe hay đợi khách ở Cầu Gỗ cũng có ý nhưng cứ hễ mở miệng là bị cô mắng. Chiều chiều cô đi đổ rác, ông lại theo sau vờ đi mua thuốc lá rồi ra hồ khi nhìn thấy không có ai mới dám vuốt má hay cầm tay cô. Bà chủ không biết chồng mình có tình ý với người ở trong nhà, song lại là người tay hòm, chìa khóa giữ trong nhà nên ông chưa biết làm cách nào để lấy được tiền mua nhà cho cô Sót.

Năm 1954, Hà Nội tiếp quản, ông chủ cùng cả gia đình di cư vào Nam để lại người tình nhỏ bé ở Hà Nội. Trước khi đi ông hứa vào trong đó thu xếp xong chỗ ăn, chỗ ở cho gia đình, ông sẽ trở ra Hà Nội.Nhưng tính toán của ông không thực hiện được. Từ ngày ông đi, cô thay đổi tính nết, trầm và ít nói và chiều nào cũng thẫn thờ đi qua đi lại cửa hàng trước kia là của nhà ông. Cô bắt đầu cuộc sống mới bằng nghề khâu giầy ở trước cửa số nhà 7 Đinh Tiên Hoàng (sau là bách hóa 12 Bờ Hồ). Sau ngày tiếp quản Thủ đô, ai đi giầy Tây bị coi là có lối sống tư sản, nên nhiều người đã lau giầy cất đi để thay bằng dép cao su cho hợp thời mới, nên chẳng còn nhiều người mang giầy đi khâu lại nữa. Cô chuyển sang bán dây cao su và rút dép. Hàng ngày cô buộc dây cao su vào quanh chiếc rổ đeo trước ngực đi bán rong quanh bến tầu điện. Nhiều năm dòng như vậy cô Sót ngày nào đã trở thành bà "Sót điên".

Năm 1975 đất nước thống nhất, sau bao năm lăn lộn kiếm ăn, bà dành dụm được một số tiền, khi dân hai miền được phép đi lại thăm nhau, cậy cục mãi bà mua được một vé tầu vào Nam tìm người yêu. Vào tới Sài Gòn, ban ngày bà đi lang thang hết đường này tới đường khác mà Sài Gòn mênh mông lại không biết người tình ở đâu, buổi tối quay về nhà ga Sài Gòn ngủ. Để không bị lạc đường, buổi sáng trước khi đi bà cắt vụn các tờ giấy màu cho vào đầy một bị, đi đến đâu bà rắc giấy đến đó nên buổi chiều tìm về nhà ga không khó. Gần hết tiền nhưng vẫn không tìm được, bà quay ra Hà Nội lại câm lặng bán dây cao su và rút dép. Đến khi không còn người đi dép cao su bà chuyển sang làm búp bê. Có một nhiếp ảnh gia đã chụp bà từ phía sau với các con búp bê trên vai và đặt tên cho bức ảnh là "Hành trang cuộc đời ". Bức ảnh được hội Nhiếp ảnh Hà Nội trao giải nhất trong triển lãm ảnh hồ Gươm năm 1993.

Bà mất đâu năm 2000 hay 2001 gì đó. Thế là chỉ vì một ánh mắt nhìn âu yếm, một cái nắm tay hay một cái vuốt má mà cô Sót hiền lánh, chăm chỉ, thật thà và khéo léo đã coi mình như "ván đã đóng thuyền" để rồi tự biến mình thành bà "Sót điên".

Tôi đã để tâm tìm kiếm bức ảnh" Hành trang cuộc đời" để minh họa, nhưng vẫn chưa tìm được. Rất may mắn là tôi được bà Trần Hồng gửi tặng bức ảnh bà Sót trong kho ảnh lưu trữ của gia đình do NAG Trần Mạnh Cường chụp ngày 3/4/1995.
Hanoi ngày 16/4/2025

Tài liệu tham khảo:
* Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX của Nguyễn Văn Uẩn
* Lược trích câu chuyện "Một đời tình câm lặng" của nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến.

Bình luận của bạn

Tin khác