Chương 38 Nhà Nguyễn Thời kỳ trước Pháp thuộc

Thứ 2, 21/04/2025, 23:53 (GMT+7)

Chia sẻ

Con Hồng Cháu Lạc

Chương 38

Nhà Nguyễn

Thời kỳ trước Pháp thuộc

Hồi 1

Vua Gia Long


Đất Quy Nhơn cảnh buồn người héo,
Muốn viếng em định kéo quân ra,
Nhưng vì vướng chuyện chưa qua,
Nhiều lời nghi kỵ vẫn là đừng nên.
Rồi lại sợ mất thêm có biến,
Từ Gia Định đao kiếm ra đây,
Trở tay không kịp là gay,
Mất đi chỗ dựa vùng này Quy Nhơn.

Chuyện bất bình nguồn cơn chưa dứt,
Lọt đến tai chính thức ra quân,
Nguyễn Nhạc mạch yếu nổi gân,
Nằm trên giường bệnh có phần hom hem.
Cử quân đi chỉ đem tin xấu,
Mất Phú Yên phên giậu bật tung,
Quy Nhơn thành ấy ung dung,
Đưa quân vây hãm khốn cùng đến nơi.

Vội biên thư cho mời vua cháu,
Rồi chỉ nằm đau đáu chờ tin,

1


Trông hoài mòn mỏi cánh chim,
Thở dài thườn thượt mắt nhìn hư vô.

Rồi nghe báo tướng Ngô Văn Sở,
Phạm Công Hưng phá vỡ vòng vây,
Phú Xuân quân sỹ vào đây,
Đẩy lùi Nguyễn Ánh đứng đầy ngoài kia.

Tiệc khao quân vàng chia bạc dắt,
Chơi mấy ngày ngó khắp mọi nơi,
Tưởng rằng ít bữa thảnh thơi,
Thu quân về đó tạm thời dừng chân.

Rồi chẳng ngờ đóng quân ở lại,
Đã cho người nói mãi không đi,
Kê biên tài sản cho ghi,
Hiểu rằng sắp có chuyện gì xảy ra.
Cả cơ nghiệp đó là xương máu,
Cũng chẳng còn bị cháu thừa cơ,
Đoạt lấy mặc bác nằm trơ,
Bao năm trận mạc không ngờ trắng tay.

Uất vua cháu hận này dồn lại,
Thổ huyết tươi mặt tái từng cơn,
Hơi tàn trút tại Quy Nhơn,
Vùi đi một thủa Tây Sơn lẫy lừng.

2


Con chịu phận thẳng thừng an trí,
Cùng anh em chẳng nghĩ cho nhau,
Quang Toản, Quang Bảo trước sau,
Con chú con bác nỗi đau tương tàn.
Bảo không chịu cũng toan nổi dậy,
Chiếm Quy Nhơn rồi lấy dâng cho,
Nguyễn Ánh trong ấy đem so,
Đang đà lớn mạnh đắn đo nỗi gì.

Việc vỡ lở thôi thì nhanh chậm,
Chỉ hơn nhau mà phận tiêu vong,
Quang Bảo cái chết không mong,
Chẳng còn hậu họa yên lòng vua em.

Ngày nối ngôi lệnh đem ban bố,
Cảnh Thịnh là bến đỗ từ nay,
Bùi Đắc Tuyên thái sư này,
Cậu vua giám quốc một tay đỡ đần.
Vua lên mười toàn phần cai quản,
Thành chuyên quyền để loạn từ trong,
Triều đình đầy rẫy tiếng ong,
Vo ve khắp chốn đắng lòng dưới trên.
Toàn người giỏi bởi nên mới loạn,
Chẳng phục ai trong đám võ văn,
Mất người thủ lĩnh muôn năm,

3


Chia năm sẻ bảy quyền rằng rối tung.

Vũ Văn Dũng nổi khùng làm ẩu,
Giết Đắc Tuyên nói xấu sau lưng,
Ngô Văn Sở cũng tự dưng,
Trở thành đối thủ thanh trừng bằng gươm.
Trần Quang Diệu trên đường chinh phạt,
Với Nguyễn kia nghe loạn từ trong,
Rút quân trở lại những mong,
Cho êm cho ấm yên lòng ra đi,

Bị truy kích thôi thì vất vả,
Về được rồi tưởng đã êm tai,
Không ngờ đỏ mặt tía tai,
Tay chân suýt động võ đài khoe đao.

Phan Huy Ích lời nào khuyên giải,
Cả hai bên nói mãi mới thôi,
Dũng, Diệu hai tướng nuốt trôi,
Dường như còn nghẹn gượng ngồi với nhau.

Rồi chẳng hiểu trước sau lại quyết,
Tước binh quyền Quang Diệu bớt đi,
Lục đục nghi ngại ngại nghi,
Chẳng ra thể thống lợi chi lúc này.

4


Nguyễn Văn Bảo chuyện này nóng mặt,
Rủ anh em cùng dắt gươm đao,
Quy Nhơn từng đã ước ao,
Chiếm về làm chủ cướp ào về tay.
Nhưng bại trận thân này đã lụy,
Lại kéo theo người bị hàm oan.
Lê Trung, Văn Huấn lệnh ban,
Nghi ngờ dính líu vội vàng giết đi.
Con Lê Trung nay thì mang hận,
Gặp Ánh kia Lê Chất xưng tên,
Nội tình rối loạn tâu lên,
Rằng là cơ hội cũng nên một lần.

Nhằm Quy Nhơn xốc quân đánh vội,
Vũ Tuấn hàng đất đổi tên thay,
Bình Định từng bước chuyển xoay,
Để cho khớp với phép này trong nam.

Triều Tây Sơn quê làng gốc tổ,
Chẳng thể nhường phải cố xông lên,
Diệu, Dũng hai tướng có tên,
Cử đi chiếm lại không quên dặn dò.

Hơn một năm chỉ lo giành giật,
Võ Tánh kia tròn phận trên giao,
Giữ thành còn có mưu cao,

5


Chốt chân để Ánh đánh vào Phú Xuân.
Bởi chủ lực đa phần đi cả,
Chẳng còn nhiều chống trả khó khăn,
Vượt biển chẳng bị ai ngăn,
Phú Xuân tập kích đánh căng mấy hồi.

Quang Toản thua bỏ ngôi chạy loạn,
Hướng Bắc Hà ẩn tạm Thăng Long,
Hết thời số phận long đong,
Mười năm tại vị suy vong đến hồi.

Thành Quy Nhơn đứng ngồi nhấp nhổm,
Đã trở về cứu khốn phò nguy,
Gặp quân đánh chặn cử đi,
Vượt qua không nổi thôi thì rút lui.
Về Quy Nhơn không lùi được nữa,
Phải dồn quân đạp cửa mà vô,
Võ Tánh tự vẫn lời phô,
Tha cho binh sỹ cơ đồ xin dâng.

Chiếm được thành chẳng cần phải giữ,
Vội đốc quân cửa tử về ngay,
Nghệ An nguy ngập tin bay,
Nhanh chân kẻo mất vùng này với ai.
Đường khúc khủy chông gai bẻ hướng,
Phải đi vòng Vạn Tượng thành ra

6


Về thì mọi chuyện đã qua,
Thành trì đã mất cửa nhà rối tung.
Rơi vào bẫy đường cùng khó thoát,
Hai vợ chồng phận bạc có nhau,
Quang Diệu trước Thị Xuân sau,
Trần - Bùi hai họ vẫn câu chung lòng.
Vũ Văn Dũng chìm trong biến loạn,
Chẳng thấy người mất dạng về đâu,
Giải về cũi ấy lời tâu,
Mấy kẻ đã tóm cầm đầu ngồi trong.

Chiếm trọn vẹn thỏa mong từ bấy,
Đất Phú Xuân ngày ấy lên ngôi,
Nhâm Tuất tháng sáu bề tôi,
Tung hô vạn tuế ngàn lời muôn năm.
Nay niên hiệu lời rằng ghép lại,
Đã thu về một dải non sông,
Nam bắc hết cảnh ngóng trông,
Giờ là chỉ một Lạc Hồng đoàn viên.
Từ Gia Định nối liền ra đó,
Thăng Long xưa sóng gió vượt lên,
Gia Long chữ ấy ghép tên,
Từ đầu chí cuối lập nên vương triều.

Xong đâu đấy lại điều Văn Duyệt,

7


Tướng họ Lê giải quyết cho xong,
Tàn dư trốn ở Thăng Long,
Bắt cho bằng được, dẫn vòng về đây.

Hai tháng trời thân này ngơi nghỉ,
Nhằm cuối năm chuẩn bị xong xuôi,
Tháng chạp có chút đồ tươi,
Hiến phù làm lễ dâng người tù binh.
Để báo công đã bình thiên hạ,
Mối thù xưa phải trả hôm nay,
Dòng họ Nguyễn Phúc có hay,
Từ thời chúa Sãi, Phúc này đã ban.
Rằng mẫu thân mơ màng trong mộng,
Được chữ kia mới động tâm can,
Tên Phúc định đặt nhưng khoan,
Vì rằng như thế chỉ mang một đời.
Nên thành đệm mong thời dài mãi,
Để cháu con hưởng đại hồng ân,
Thật là phúc ấy đã nhân,
Mà nay mới được muôn phần vẻ vang.

Thủa sơ sinh từng mang tên Chủng,
Có đệm thành mầm phúc trời cho,
Buổi đầu tuổi nhỏ đã lo,
Bôn ba theo Chúa chèo đò khắp nơi.
Loạn quyền thần cha thời mất mạng,

8


Phận cốt cui năm tháng đơn côi,
Tình cha giản dị thế thôi,
Chẳng bao giờ có lệ rơi âm thầm.
Rồi nội bộ có phần không ổn,
Lý Tài kia muốn ấm lo thân,
Phò Phúc Dương đã ôm chân,
Thành ra đối địch Thành Nhơn bữa nào.
Bởi họ Đỗ đề cao chủ cũ,
Là Phúc Thuần uy vũ lung lay,
Tranh chấp chuyện đó chẳng hay,
Tây Sơn biết được ra tay bất thần.

Chẳng còn ai, cũng gần tuyệt diệt,
Còn mỗi mình chốn biệt đảo xa,
Thổ Chu nơi ấy sóng va,
Quý nhân phò trợ may mà sóng yên.
Bá Đa Lộc có duyên gặp gỡ,
Giám mục này đã mở vòng tay,
Người Pháp rõ chuyện mới hay,
Để rồi che chở những ngày tối tăm.

Một tháng sau thấy rằng đã rút,
Mới trở về muốn trút hờn căm,
Đồ tang trong gió dưới trăng,
Mặc vào quyết tử thề rằng thù chung.
Đỗ Thành Nhơn đã cùng trở lại,

9


Giúp một tay đánh bại Tây Sơn,
Gia Định chiếm lại suy tôn,
Ngôi vương đã định, tuyên ngôn mấy lời.

Mười bảy tuổi đã thời làm Chúa,
Giám mục kia đã hứa kề vai,
Cố vấn những chuyện nay mai,
Thủy binh chú trọng, bờ dài biển xanh.
Long Lâm Thuyền, tung hoành ngang dọc,
Chân Lạp kia tính ngóc đầu lên,
Dẹp rồi bắt phải xưng tên,
Chư hầu tuân phục không quên phận mình.

Với Xiêm La thân tình giao hảo,
Tuy mấy lần vung giáo so gươm,
Thế đã mạnh cung đã giương,
Định làm nên chuyện mở đường đánh ra.
Nhưng thất trận rồi là trú tạm,
Phú Quốc kia chưa dám nhìn xa,
Đại quân rút, lại trở ra,
Về vùng Gia Định để mà dựng xây.
Lại tiến đánh lại vây lại diệt,
Về Ba Giồng chạy miết mới thôi,
Gia quyến Phú Quốc than ôi,
Thất tha thất thểu một thời đau thương.

10


Bị Nguyễn Huệ chặn đường tìm diệt,
Phải cưỡi trâu chốn biệt mới yên,
Rồi Lê Phúc Điển làm khiên,
Giả vương mặc áo lụy phiền chịu thay.
Đảo Côn Lôn cũng may ra đó,
Rồi cũng nhờ cơn gió trời thương,
Đánh chìm tất cả chúng đương,
Đưa thuyền vây bọc hết đường ngoài khơi.

Cá trên thớt mà rồi lại thoát,
Đành phải nhờ người Pháp giúp cho,
Đa Lộc, hoàng tử giao cho,
Cảnh vừa bốn tuổi chèo đò ra đi.

Nhưng bức bách thôi thì qua đó,
Nhờ Xiêm La cũng có thù chung,
Trở về vừa đánh vừa rung,
Nào ngờ đại họa khốn cùng trên sông.
Trận Rạch Gầm kể không hết tội,
Thề với lòng chẳng đội trời chung,
Lại phiêu bạt, lại long đong,
Sang Xiêm nương náu mở lòng cho qua.
Rồi tụ tập để mà giúp bạn,
Miến Điển kia đánh bạt mấy phen,
Mã Lai tuy chẳng có quen,
Nhưng rồi cũng thắng tiếng khen nức lòng.

11


Còn hứa giúp để xong sẽ phụ,
Cùng một tay dẹp lũ Tây Sơn,
Gia Định trở lại giang sơn,
Để mà vùng vẫy rửa hờn vẫn mang.

Thế đang mạnh rõ ràng e ngại,
Bồ Đào Nha giúp lại thêm lo,
Biết rằng sẽ chẳng hay ho,
Để rồi lặng lẽ quân cho trở về.
May đúng lúc chưa hề dự liệu,
Huệ, Nhạc kia võ diễu oai giương,
Anh em hai kẻ cùng cương,
Đánh nhau một trận sau nhường mới thôi.

Cũng là lúc ta ngồi yên vị,
Gia Định thành đúng ý từ xưa,
Lữ chết rục, Huệ say sưa,
Nhạc thì một chỗ, ta thừa thời cơ.
Hai nhăm năm bây giờ mới được,
Ngồi ở đây đếm ngược thời gian,
Nhìn lại tất cả như đang,
Vẫn còn hiển hiện rõ ràng chẳng phai.
Phải mạnh tay ra oai sấm sét,
Để làm gương đe nẹt còn ai,
Chống đối tính chuyện nay mai,
Thay thời đổi thế tính bài bất trung.

12


Vì chín đời mà dùng hình phạt,
Trả thù cho họ mạc nhà ta,
Lôi đám tử tội đưa ra,
Lăng trì róc thịt lột da bọn này.
Còn mấy đứa voi giày ngựa xéo,
Chọn con nào vửa khỏe vừa hung,
Phanh thây tứ mã roi vung,
Để xem gan mật có cùng như nhau.
Mấy lăng mộ, người đâu quật hết!
Cho dù là có chết không tha,
Xương cốt nghiền hết cho ta!
Quăng ra tứ phía vẫn là chưa thôi.
Mấy sọ dừa cho lôi từng cái,
Bỏ vào vò rồi đái vào trong,
Ngâm cùng chưa hẳn đã xong,
Giam vào ngục tối mỗi phòng một tên.
Mang bài vị giam thêm trong đó,
Cứ đến kỳ phải ngó vào xem,
Nếu thiếu nước đái cho đem,
Tưới vào cho đủ ban thêm nhục hình.

Bao nhiêu năm nhân tình xáo động,
Nay cõi bờ trải rộng Bắc Nam,
Trên bộ một dải thênh thang,
Ngoài kia mặt bể mênh mang nắng vàng.

13


Các Tiên Chúa mở mang bờ cõi,
Đã cho thuyền len lỏi bờ xa,
Cát vàng đảo ấy đã ra,
Chủ quyền xác lập khi là vùng hoang.
Quần đảo ấy đã mang tên gọi,
Là Hoàng Sa chỉ bởi ngoài khơi,
Cát vàng đảo ấy nắng phơi,
Đẹp như chuỗi ngọc giữa trời ngàn sao.
Xuôi về nam chùm nào lấp lánh,
Là Trường Sa óng ánh hạt châu,
Hai quần đảo, hai chuỗi xâu,
Luồn vào đất mẹ lắng câu ru hời.
Phái quân thủy ra nơi đảo vắng,
Chọn đúng thời sóng lặng mà đi,
Đo đạc lại, cho chép ghi,
Để còn xem xét làm gì về sau.

Cảnh nồi da làm đau nhân thế,
Tới bây giờ chẳng thể nhận ra,
Đâu là cốt cách ông cha,
Thuần phong mỹ tục đã là đổi thay.
Phải xét lại từ nay chấn chỉnh,
Đưa vào guồng mục đích loại ra,
Những thứ chẳng phải tinh hoa,
Mà là rác rưởi xấu xa nảy nòi.
Lấy Nho giáo theo đòi Khổng Mạnh,

14


Làm gương soi nguồn mạch Băc phương,
Làm nền tảng dựng kỷ cương,
Tạo thành trụ cột mối rường nước Nam.
Việc triều chính lệnh ban không lập,
Tể tướng là tránh lấp mặt vua,
Lộng hành vốn tính không ưa,
Bao nhiêu bài học từ xưa vẫn còn.

Chia lục bộ Lại, Công, Lễ, Hộ,
Rồi Binh, Hình đặt chỗ người coi,
Thượng thư chức ấy ra roi,
Giúp vua cai trị xét soi mọi điều.
Nơi hậu cung cũng nhiều biến loạn,
Chuyện tranh giành giữa đám hậu phi,
Sử sách bao truyện đã ghi,
Nguy cơ tiềm ẩn thôi thì đừng nên.
Bỏ tước Hậu, chẳng thêm phiền phức,
Chỉ phi tần chính thức mà thôi,
Bớt đi cái chuyện ỉ ôi,
Cho dù sủng ái cũng ngồi bằng vai.

Bao nhiêu năm nằm gai nếm mật,
Chuyện binh đao chất ngất đau thương,
Quân dũng mãnh, tướng kỷ cương,
Tiền hô hậu ủng binh cường dưới tay.
Yên đại cục từ nay xếp lại,

15


Tùy theo vùng sẽ phải phân ra,
Chỉ tiêu ban bố gần xa,
Kiện toàn lực lượng quân ta luyện rèn.
Dù thủy bộ đã quen vẫn phải,
Rèn cho quen các loại khác nhau,
Tây học trước, Tàu luyện sau,
Bài binh bố trận thợ thầy nhập vai.

Nay non nước trải dài thiên lý,
Chọn miền Trung bởi nghĩ từ đây,
Vào Nam ra Bắc đường mây,
Chia đều hai nửa căng dây thẳng hàng.
Định Phú Xuân đăng đàn lên Điện
Làm kinh đô tiếp kiến bá quan,
Xây thành theo kiểu Vauban,
Như thành Gia Định từng làm trước đây.
Bởi thủa ấy chưa xây thành lũy,
Vùng đất này thường bị Tây Sơn,
Mùa gặt bông trổ đồng thơm,
Cho người trộm lúa cỏn rơm để phần.

Nhờ người Pháp quen thân vào việc,
Dựng tòa thành khác biệt xưa nay,
Châu Âu kiểu ấy cũng hay,
Giặc kia đành chịu, thành này chào thua.
Kiểu bát quái nay đưa áp dụng,

16


Ở kinh đô cho dựng cho xây,
Trên nền dinh cũ nơi đây,
Thành nơi đô hội chốn này vàng son.

Nay phân định nước non ba mảnh,
Gồm Bắc Hà xứ lạnh ngoài kia,
Gia Định trong đó phân chia,
Miền Trung ở giữa kinh kỳ làm tâm.
Việc bang giao đã phân Quang Định,
Người họ Lê danh chính cầu phong,
Sang chầu Thiên Tử những mong,
Khổng Nho cùng đạo tỏ lòng đón đưa.
Còn dâng tấu xin thưa tên mới,
Nam Việt này cũng bởi nguyên nhân,
Phương nam vùng đất trú chân,
Có chủng tộc Việt người dân thuận hòa.

Vua Gia Khánh xem ra chưa thuận,
Bởi trùng tên dễ lẫn hiểu sai,
Nhà Triệu ngày trước đất đai,
Cũng xưng Nam Việt sử dài từng xem.
Tuy đã mất nhưng đem khơi lại,
Chẳng khác gì tự hại bản thân,
An Nam tên ấy đã phân,
Bao năm vẫn vậy có phần gì đâu.
Dù biết rằng trong đầu không phục,

17


Đại Việt kia thách thức rằng tôi,
Lập lờ ở thế nước đôi,
Nhưng nay có vẻ chịu ngồi nghe ban.

Bởi chữ Nam chịu làm phận thấp,
Với Bắc phương là đất trung tâm,
Chữ Việt có chút lên gân,
Chữ An chẳng chịu ngàn lần muốn thay.
Lại có ý từ ngày ra bắc,
Lấy lòng dân thấy thật gian nan,
Bởi xưa chỉ ở trong nam,
Chẳng bao giờ dám mộng vàng làm vua.
Chỉ mong được kế thừa giòng tộc,
Các Chúa xưa vốn gốc xứ Thanh,
Trải qua bao cuộc phân tranh,
Vẫn là chẳng thể sông Gianh ngáng đường.
Rồi thế nào muôn phương lặn lội,
Gặp thế thời nay mới nên hương,
Giương oai diễu võ một phương,
Cũng làm nên chuyện dễ thường mấy ai.
Nay sang đây dùng tài ăn nói,
Mà bang giao học hỏi đời xưa,
Mượn chính danh để kế thừa,
Nhà Lê đời trước đã đưa chầu giời.
Để có cái thiên thời mà dọa,
Dân đàng ngoài vốn đã không theo,

18


Nay về có cái biển treo,
Thế là ngôn thuận mái chèo vững tay.
Việc đổi tên chuyện này cũng được,
Vì xóa đi cái nước tự xưng,
Đại Việt như thọc ngang lưng,
Nghe mà khó chịu tự dưng thấy gờm.
Năm ba bận nguồn cơn bày tỏ,
Năm ba lần việc đó ngoài tai,
Lại càng có ý nay mai,
Thụ phong từ chối dẫu nài cũng không.
Mãi chẳng chịu mất công đành gật,
Thôi thì ừ nhưng vẫn hơn thua,
Đảo từ xem đã được chưa,
Việt Nam để tránh tên xưa bị trùng.

Nghĩa vẫn vậy tùy tùng báo lại,
Cũng được rồi thoải mái thụ phong,
Thỏa lòng bởi đã từng mong,
Làm nên chuyện lớn khắc trong sử vàng.
Đồ tiến cống nhẹ nhàng cũng được,
Ba năm trời mới bước chân sang,
Từ giờ hai chữ Việt Nam,
Dùng làm quốc hiệu đường hoàng xưng danh!

Từ thủa xưa ngọn ngành kể lại,
Lời sấm kia đâu phải không linh

19


Giờ đây như được chứng minh,
Việt Nam tên ấy, Trạng Trình viết ra.

Thăng Long thành người qua kẻ lại
Sứ nhà Thanh ngay tại cố đô
Viện rằng cách trở quanh co
Phú Xuân, vua ấy chèo đò lại đây.

Ra Thăng Long, lần này khác trước,
Bởi lần đầu lĩnh ấn mang quân,
Bắt vua Cảnh Thịnh Tây Sơn,
Văn Duyệt ra bắc chiếm phần thượng phong.
Sau mấy ngày Thăng Long mở lối,
Điện Kính Thiên trống nổi rền vang,
Gia Long nhập điện chiêu an,
Vỗ yên trăm họ mở đàng hiếu sinh.
Họ Trịnh kia cũng tình gia tộc,
Bởi hai nhà vốn gốc thông gia,
Ân oán đời trước cho qua,
Giờ là đi lại sang nhà hỏi thăm.
Giao Trịnh Tư năm trăm mẫu ruộng,
Để toàn tâm sớm muộn trông nom,
Mồ mả họ Trịnh cháu con,
Vẫn là hiếu kính hương còn ngát bay.
Còn cháu con họ này miễn thuế,
Cùng họ Lê cũng để vinh danh,

20


Hậu duệ các bậc công khanh,
Công thần khai quốc vang danh một thời.
Còn những kẻ trước thờ Tam Kiệt,
Hiểu thế thời mà biết ăn năn,
 Giỏi giang mà có tiếng tăm,
 Xét người giao việc xem rằng cũng nên.
 Vì bang giao trên nền hiểu biết,
 Sẽ thuận hòa mọi việc hanh thông,
 Sau này xem xét tội công,
 Để mà định đoạt cũng không vội gì.

 Thăng Long xưa thành trì cũng phải,
 Xem thế nào tái thiết quy mô,
 Phú Xuân nay mới kinh đô,
 Bắc thành là hợp, cơ đồ khác xưa.
 Tên Thăng Long nay thừa ý tứ,
 Thôi từ giờ nghĩa chữ Rồng Bay,
 Là Thịnh Vượng thế đất này,
Mọi bề ổn thỏa từ nay sẽ là.
Dựng kỳ đài từ xa nhìn lại,
Đế ba tầng vững trãi vươn cao,
Tháp bát giác đụng trăng sao,
Sau này là chỗ cờ nào tung bay

Lần thụ phong, thân này ngoài cõi,
Tới Bắc thành học hỏi tiền nhân,

21


Văn Miếu ấy lời thơ ngâm,
Hiền tài nguyên khí luôn cần chăm lo.
Lại xem xét nay cho chọn hướng,
Gác Khuê Văn biểu tượng văn chương,
Dựng cạnh giếng tựa tấm gương,
Sánh cùng nhật nguyệt tuệ hương dâng đời.
Lệnh Phú Xuân, coi nơi ngân khố,
Xuất kim ngân ban bố gần xa,
Quốc Tử Giám dựng để mà,
Rèn văn luyện chữ tìm ra nhân tài.
Các kỳ thi phân đai cao thấp,
Sau bổ quan mà lập công danh,
Công trạng lưu dấu sử xanh,
Sẽ là vạn thủa tiếng lành còn lưu.

Mấy trăm năm vì mưu đại sự,
Nay hạ màn phân sử ngày qua,
Thâu lượm chắt lọc tinh hoa,
Dù trong dã sử tìm ra ngọn ngành.
Từ Nhà Lê, phân tranh Nguyễn Trịnh,
Đến Tây Sơn phân định đúng sai,
Làm rõ để biết nay mai,
Mà còn thông tỏ những ai góp phần.
Giao Quang Định đang chân Binh bộ
Là thượng thư bạn chỗ lâu năm,
Trịnh Hoài Đức cũng tiếng tăm,

22


Cùng trong Sơn Hội nhóm rằng hay thơ.
Với Nhân Tịnh tới giờ vẫn nổi,
Gia Định này chỉ mỗi Tam gia,
Lê Quang Định đúng thật là,
Chẳng còn ai khác để mà cậy trông.

Bộ sách quý mười phần tóm lược,
Các vấn đề non nước Việt Nam,
Ý sâu sắc tứ mênh mang,
Văn phong mạch lạc rõ ràng trước sau.
Dâng hoàng thượng lời tâu ngự lãm,
Tên gọi là Nhất Thống Địa Dư,
Hoàng Việt thêm trước coi như,
Là lời khẳng định mỹ từ bút vung.
Lại thêm Chí mà dùng làm kết,
Để rõ ràng cái nét văn phong,
Tham mưu giúp việc những mong,
Bề trên thông tỏ dốc lòng bề tôi.

Nhờ có vậy mà ngồi trên điện,
Vươn cái tầm hiểu biết phương xa,
Bàn cho kỹ lệnh ban ra,
Điều hành triều chính được ta thuận người.
Tiền đề để hơn mười năm tới,
Dựng công trình nắm bởi quan văn,

23


Quốc Sử Quán chốn tiếng tăm,
Biên soạn sách sử nâng tầm quốc gia.

Chuyện bang giao phòng xa tính kỹ,
Với Tây phương cũng chỉ qua loa,
Tây Trúc, Ấn Độ chân sa,
Để rồi lỡ nhịp đã là dưới tay.
Với Anh quốc chuyện này nghi ngại,
Với Mỹ kia cũng lại bỏ bê,
Chỉ có Pháp quốc là mê,
Chịu ân từ thủa tứ bề long đong.
Bá Đa Lộc dốc lòng giúp đỡ,
Đã là người thiên cổ từ lâu,
Tang ma trọng thể ân sâu,
Đã là báo đáp công đầu khắc tên.

Không vì thế mà quên cảnh giác,
Bởi thông thường còn các đạo sang,
Truyền giáo tính định mở mang,
Thêm tầm ảnh hưởng ngó ngàng nước non.
Cho hưởng lộc nhưng còn quyền hạn,
Là chữ không chớ phạm việc riêng,
Cũng may hiệp ước đầu tiên,
Không thành hiện thực đỡ phiền ngày nay.
Thời Đa Lộc, chuyến này qua Pháp,
Hiệp ước nào điều khoản ký tên,

24


Thiên lệch nghiêng cả về bên,
Lợi cho nước Pháp ngồi trên hưởng phần.

Cũng chỉ bởi tinh thần giúp đỡ,
Cho Cảnh đi cứ ngỡ là mau,
Nào ngờ mùa gió đến sau,
Thế là thành chậm đợi nhau mấy mùa.
Lại đúng lúc hơn thua đành phải,
Nhờ Xiêm La đánh lại Tây Sơn,
Rạch Gầm – Xoài Mút còn ôm,
Mối thù ngày đó rửa hờn vừa xong.
Nhờ có vậy nay lòng nhẹ nhõm,
Nếu không thì chẳng trọn niềm vui.
Hiệp ước hủy bỏ phải lui,
Không còn nhiễu sự đẩy lùi nguy cơ.

Còn lân bang nay giờ quy thuận,
Chân Lạp kia giữ phận làm em,
Xiêm La mấy bữa đã đem,
Quân đưa tính chuyện lèm nhèm không đâu.
Để Chân Lạp lại cầu qua giúp,
Để tướng quân Văn Duyệt sang bên,
Xiêm La rút, việc lại êm,
Nam Vang ở lại, xây thêm ít nhiều.
Sau Văn Thoại được điều tới đó,
Trấn nơi này ngộ nhỡ làm sao,

25


Giúp cho Chân Lạp chuyện nao,
Tránh đi hiểm họa bên nào chưa thôi.

Còn Vạn Tượng vẫn hồi ngang ngửa,
Ngã ba đường đứng giữa hai bên,
Việt, Xiêm vẫn thế cửa trên,
Tranh quyền ảnh hưởng giành thêm ít nhiều.
Còn với Xiêm bao nhiêu tình cảm,
Trước tới giờ đâu dám nhạt phai,
Hoa vàng hoa bạc đã sai,
Sáu lần mang tặng viết bài ngợi ca.
Bởi hoạn nạn đã qua giúp sức,
Dù thế nào cũng thức thâu canh,
Ranh giới sống chết mong manh,
Đã cho người cứu thoát nhanh vũng lầy.
Nhưng dù gì giờ đây phải tính,
Khéo không là lại dính thị phi,
Lòng người có lúc có khi,
Vẫn là cẩn thận không thì dở dang.

Chuyện liên minh mở mang bè cánh,
Với nước kia sát nách Xiêm La,
Miến Điện tranh chấp lại qua,
Với Xiêm chưa dứt vẫn là gườm nhau.
Sẽ sử dụng trước sau nếu có,
Đến lúc cần diễu võ giương oai,

26


Làm vậy cũng chỉ mong ai,
Giữ gìn hòa khí lâu dài mà thôi.

Chuyện đồng tiền tới hồi phải tính,
Đúc cho dùng mặt chính ghi niên,
Gia Long Thông Bảo có tên,
Thất phân mặt dưới đúc thêm rõ ràng.
Nay trọng thương chưa bàn tạm gác,
Cũng chỉ vì cứ vác đạo theo,
Đức tin chuyện ấy cứ gieo,
Vào lòng dân chúng kẻ theo không lường.
Mất điểm tựa hết phương chống đỡ,
Cho quân qua chỉ trở bàn tay,
Lật nhào thế sự đổi thay,
Từ vua thành giặc chuyện này dễ không.

Chuyện làm luật cậy trông vào kẻ,
Nguyễn Văn Thành có lẽ chẳng sai,
Tổng tài soạn cùng những ai,
Gọi là rường cột chung vai xây nền.
Nước non nay kề bên mặt bể,
Bắc vào Nam chẳng thể một khuôn,
Văn hóa luồng lạch đang tuôn,
Dựa vào làm luật khởi nguồn từ đây.
Dùng Nho học mà gây thanh thế,
Luật nhà Thanh lấy để dựa theo,

27


Luật Hồng Đức cũng làm neo,
Để không thiên lệch cột kèo nước nam.
Lấy pháp trị dùng làm căn bản,
Rằng gia uy quốc pháp là đây,
Hoàng Việt Luật Lệ chung tay,
Làm nên khuôn phép triều này ban ra
Chính hoàng thượng sẽ là đề tựa,
Hiệu đính rồi chỉnh sửa từng chương,
Chính trị cần có kỷ cương
Dựa trên hình pháp mối rường mới yên.

Để lấy đó các miền chấn chỉnh,
Bởi bấy lâu vẫn tính cuồng ngôn,
Kéo bè kết đảng mộng ôm,
Dã tâm tách thửa dân dồn lập riêng.
Nào Văn Phúc vung quyền họ Lý,
Thêm mấy vùng quân bị xưng danh,
Dương Đình Cúc, Mã Sỹ Anh,
Còn là Tất Thúc xứ Thanh cũng hùa.
Và nhiều nữa vẫn chưa tâm phục,
Bởi đàng ngoài chữ Phúc chưa sâu,
Vỗ về trấn áp buông câu,
Tướng tài thu phục quay đầu về kinh.

Chuyện Văn Thành triều đình có vẻ,
Vẫn chưa yên bởi lẽ lộng ngôn,

28


Công thần khai quốc suy tôn,
Mà con làm ẩu dại khôn ai ngờ.
Bài thơ đó mập mờ có thể,
Là kéo bè mà để lật ngôi,
Lê Văn Duyệt phận bề tôi,
Cho dù hiềm khích mà bôi thêm lời,
Nhưng ai biết ở đời lắm kẻ,
Ở bên ngoài có vẻ trung quân,
Cơ hội đến là đao vung,
Sẵn sàng phản chủ ngại ngùng gì đâu.
Nên cẩn trọng là câu tạc dạ,
Dù có nhầm cũng đã làm sao,
Một đời lận đận lao đao,
Cũng không thể để kẻ nào lọt qua.

Rồi Trần Thường cũng là sinh chuyện,
Thuế triều đình lại biến thành tư,
Lê Chất tố cáo coi như,
Công thần cũng bắt chẳng từ một ai.
Trong ngục thất viết bài gì đó,
Tự ví mình chứng tỏ khi quân,
Ai Hàn Tín ai manh tâm,
Bao lần mang tội mất dần niềm tin.

Chuyện mở mang để bình thiên hạ,
Cho làm đường dựng xá khắp nơi

29


Kho thóc gạo, trạm nghỉ ngơi,
Từ nam chí bắc gặp thời nở hoa.
Lập địa bạ để mà cai quản,
Để xem rằng đất đã bao nhiêu,
Đưa chính sách bớt quan liêu,
Để sao thiết thực là điều rất nên.

Ở ngoài bắc hỏi thêm ý tứ,
Nhưng cũng là phép thử xem sao,
Quyết rằng đê đắp thêm cao,
Làm thêm nhiều chỗ lệnh nào đã tuyên.

Lại khai khẩn những miền ngập nắng,
Rợp trắng trời bằng phẳng cò bay,
Cửu Long ấy, cuộc đất này,
Đào kênh khơi lạch đổi thay cả vùng.
Nào Thụy Hà khơi cùngVĩnh Tế,
Để đất này của để của ăn,
Người quần tụ dân số tăng,
Tiền đồn trấn ải lời rằng chuẩn y.
Để sau này biên thùy phân định,
Làm tiền đề mà tính dài lâu,
Biên giới lãnh thổ lời tâu,
Việt – Miên hữu hảo bắc cầu bang giao.

Đã bao năm hoàng bào cũng bạc,

30


Sức cũng tàn gánh vác triều ca,
Khôi phục cơ nghiệp ông cha,
Trung hưng nhà Chúa mở ra mọi bề.
Lập nhà Nguyễn vỗ về thiên hạ,
Hả cõi lòng mát dạ ông cha,
Cuộc đời đầy máu lắm hoa,
Với nhiều sắc độ cũng là vẻ vang.

Nay bệnh ngầm sức tàn lực kiệt,
Thuốc Tây, Tàu chẳng biết được bao,
Nguyễn Phúc Đảm lệnh quyền trao,
Đăng Hưng, Văn Duyệt cùng vào cửa sau.

Nay bệnh trọng có câu để lại,
Cơ nghiệp này đã phải gian nan,
Giờ thì cả Bắc – Trung – Nam,
Đã liền một dải lụa vàng ta trao.
Con nên nhớ hoàng bào bóng bẩy,
Nhưng cũng là ngần ấy đau thương,
Giữ phép tắc trọng kỷ cương,
Để cho non nước thịnh cường nghe con.
Ta sắp chết chẳng còn được mấy,
Chỉ dặn rằng nơi đấy ngoài biên,
Đừng gây hấn, đừng trống chiêng,
Cũng vì cương thổ chưa liền được lâu.

31


Cho ghi lại từng câu trăng trối,
Thái tử còn gập gối lệ rơi,
Chữ “Băng” chẳng rõ buông lơi,
Để cha nét bút trải đời phóng tay.

Năm chín năm tới ngày đã điểm,
Đông cuối mùa tử biệt sinh ly,
Kỷ Mão tháng Chạp thiên di,
Để cho hậu thế chữ bi chữ hùng.
Mười tám năm cửu trùng chính vị,
Giờ ra đi cũng chỉ một ngôi,
Cạnh Hoàng hậu thủa than ôi,
Đã từng bèo dạt mây trôi một thời.
Nay về đó vẹn lời duyên nợ,
Giấc ngàn thu huyệt nhỏ mồ xinh,
Lăng Thiên Thọ chốn lặng thinh,
Thông reo nước cuộn mặc tình thế gian.

32


Bình luận của bạn

Tin khác