Chùa Kim Hoàng thành phố Hà Nội, tên chữ là Đại Bi Tự. Ngôi chùa tọa lạc tại xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Lược sử
Xã Vân Canh, nằm tại địa điểm của Đại Bi Tự, là một cộng đồng đã tồn tại từ lâu, ít nhất là từ thời kỳ Lý và tên gọi của xã đã xuất hiện trong thời kỳ Lê sơ. Xã này bao gồm ba thôn là Kim Hoàng, An Trai và Hậu Ái (Nhân Ái). Thôn Kim Hoàng, vào cuối thế kỷ XVI, đã được hợp nhất từ hai làng Kim Bảng và Hoàng Bảng.
Dựa vào nội dung của tấm bia Hậu Phật trong ngôi chùa của xã với tên gọi là Đại Bi Tự, có thể ước lượng rằng ít nhất nhà chùa đã tồn tại từ đầu thế kỷ XVIII (thời kỳ Lê Trung Hưng). Gần đây, đình làng và chùa Kim Hoàng đều đã được tu bổ theo hướng biến Vân Canh thành một điểm đến du lịch văn hóa.
Kiến trúc
Chùa Đại Bi, với hơn ba thế kỷ chứng kiến sự biến động của lịch sử và sự ảnh hưởng của thời gian, đã trải qua nhiều công đoạn trùng tu và phục dựng. Ngày nay, diện mạo của chùa rõ ràng thể hiện phong cách nghệ thuật của thời Nguyễn.
Tam quan ngoại của chùa được xây dựng theo kiểu 2 tầng, 8 mái, được đặt ngoi lên những viên gạch ống giả, với 3 cửa mở ra con đường dẫn đến cổng phía tây của làng Kim Hoàng, cách đó khoảng 50m. Sau tam quan ngoại là một vườn trước, hai bên có hai ao hình chữ nhật. Du khách có thể đi qua con đường gạch ở giữa vườn trước để đến tam quan nội, nằm phía sau bức tường Quan Âm Nam Hải đứng trong một lầu lục giác mới được xây dựng.
Tam quan nội của chùa có kiến trúc kiểu 2 tầng, 8 mái, 16 cột, 1 gác chuông, hai bên có cửa phụ dẫn khách vào trong chùa. Tiền đường bao gồm 7 gian, đầu hồi bít đốc, mặt nhìn về hướng nam qua sân và phương đình, lưng nối với thiêu hương và thượng điện theo hình chữ “Công”. Các nếp nhà phụ nằm ở sân sau.
Di vật
Ngoài pho tượng Quan Âm Nam Hải mới xây, chùa hiện nay vẫn tồn tại quả chuông “Đại Bi tự chung” treo trên gác tam quan chùa Kim Hoàng. Chuông này được đúc vào ngày 13 tháng Năm (trong Hạ), năm Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thịnh thứ bảy (năm 1799) trong triều Tây Sơn. Bài văn bia do Tri huyện Mỹ Lương, là Nguyễn Thông Tế soạn, có 28 câu ca ngợi cảnh đẹp của chùa.
Trong chùa Kim Hoàng, vẫn còn lưu giữ hai tấm bia hậu ở hai gian bên của tiền đường. Bia thứ nhất có hai mặt chữ khắc chân phương, được dựng ngày 26 tháng một năm Giáp Thân, niên hiệu Chính Hòa thứ 25 (năm 1704). Nội dung văn bia cho biết: bà Lê Thị Thu, hiệu Diệu Trí, vốn con nhà giàu quyền quý, quê ở huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa, cùng chồng là Huyện thừa huyện Nghi Dương, họ Nguyễn, tự Xuân Thung, hiệu Trung Tín, tước Cơ Thọ nam, đã hiến cho chùa 18 quan tiền cổ và 1 mẫu 1 sào rưỡi ruộng, được làng tôn làm Hậu Phật.
Bia thứ hai cũng có hai mặt chữ khắc chân phương. Một mặt ghi ngày mồng 4 tháng Tư niên hiệu Bảo Thái thứ sáu (năm 1725) về việc bà Nguyễn Thị Trưng cúng cho làng một mẫu ruộng để phục vụ việc thờ cúng trong chùa và tu bổ giếng trước cửa chùa. Mặt sau được soạn bởi Tiến sĩ Trần Hiền, người làng, được lập ngày tốt, tháng Chín năm đầu niên hiệu Vĩnh Hựu (năm Ất Mão 1735), ghi công ơn của ông Nguyễn Xuân Thung, bà Lê Thị Thu, và bà Nguyễn Thị Trưng đã đóng góp công sức cho việc tu bổ chùa.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Bình luận của bạn