Truyền thuyết “Hồ Hoàn Kiếm”- Một cách đọc liên văn bản

Chủ nhật, 24/11/2024, 11:22 (GMT+7)

Chia sẻ

Áp dụng cách đọc liên văn bản văn hóa (thư tịch và truyền khẩu), bài viết triển khai phân tích kết cấu truyền thuyết “Hồ Hoàn Kiếm”. Trên cơ sở đó bài viết cũng đồng thời nêu một phán đoán về tên gọi “Hồ Gươm”.

Hình 1: Bản đồ kinh thành Thăng Long thời Hồng Đức 1490 [HỒNG ĐỨC BẢN ĐỒ 洪 德 版 圖, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.2499. Theo lời Lê Thước (ghi trong VHt. 41 và trong A. 2499) thì tập bản đồ này không phải vẽ vào thời Hồng Đức (1470-1497). Vì “Trung Đô” thời Hồng Đức mang tên là Vương Phủ (tờ 5a); chữ “Yên Bang” viết thành “Yên Quảng” (kiêng húy Lê Duy Bang, tờ 23a) “Tân Bình” viết thành “Tiên Bình” (Kiêng húy Lê Duy Tân, tờ 23b)]

1. Truy tầm chuyện “mượn gươm” hay là một sự nối kết sử kí

Điềm triệu thuận theo ý trời được ban gươm thần đánh dấu buổi đầu khởi nghiệp của một hoàng đế mở nước là một motif chung của cả tự sự thành văn (sử kí và truyền kì) và tự sự dân gian (truyện truyền khẩu và dã sử) nói chung. Trong trường hợp Lê Thái Tổ, thật khó và cũng không thể đặt vấn đề motif đó được kể trước bởi dân gian (ngay từ thủa dấy nghĩa ở Lam Sơn hay sau ngày giải phóng Thăng Long) hay khởi thủy từ sử kí Lam Sơn thực lục (《蓝山实录》1431, sách khâm định và Nguyễn Trãi được xem là người chấp bút). “Khi ấy nhà vua cùng người ở trại Mục-sơn là Lê Thận cùng làm bạn keo sơn. Thận thường làm nghề quăng chài. Ở xứ vực Ma-viện, đêm thấy đáy nước sáng như bó đuốc soi. Quăng chài suốt đêm, cá chẳng được gì cả. Chỉ được một mảnh sắt dài hơn một thước, đem về để vào chỗ tối. Một hôm Thận cúng giỗ (ngày chết của cha mẹ), nhà vua tới chơi nhà. Thấy chỗ tối có ánh sáng, nhận ra mảnh sắt, nhà vua bèn hỏi: – Sắt nào đây? Thận nói: – Đêm trước quăng chài bắt được. Nhà vua nhân xin lấy. Thận liền cho ngay. Nhà vua đem về đánh sạch rỉ, mài cho sáng, thấy nó có chữ “Thuận Thiên”, cùng chữ “Lợi”. Lại một hôm, nhà vua ra ngoài cửa, thấy một cái chuôi gươm đã mài dũa thành hình, nhà vua lạy trời khấn rằng: – Nếu quả là gươm trời cho, thì xin chuôi và lưỡi liền nhau! Bèn lấy mảnh sắt lắp vào trong chuôi, thành ra một chiếc gươm hoàn chỉnh.” (Nguyễn Trãi, 1431, tr.7).


Như trên đã nói, chúng ta khó mà đặt được vấn đề chuyện vua Lê được gươm thần được kể trước bởi dân gian hay khởi thủy từ sử kí Lam Sơn thực lục (LSTL). Tương tự, kể từ lúc kí tải sử truyện LSTL ra đời ta lại cũng khó mà loại trừ được khả năng chuyện “được gươm” kí tải trong đó đã đi vào truyền khẩu để trở thành chuyện kể dân gian. Thế nên khi đọc đến hai chữ “thế truyền” trong một đoạn tự sự Hán văn của Bùi Cơ Túc (裴基肅) dẫn sau ta không thể quả quyết được ông đang dẫn lại truyền thuyết dân gian hay tài liệu thành văn: “世傳黎太祖藍山起義, 初于梁江上得神劍。劍光芒刻有順天字, 命曰靈金寶藏, 建元順天”[1] (Thế truyền Lê Thái Tổ Lam Sơn khởi nghĩa, sơ vu Lương giang thượng đắc thần kiếm. Kiếm quang mang, khắc hữu “Thuận Thiên” tự. Tạm dịch:  Đời truyền rằng Lê Thái Tổ khởi nghĩa Lam Sơn, buổi đầu ở sông Lương[2]) được thanh gươm thần. Gươm sáng  loáng, có khắc chữ “Thuận Thiên”, lệnh gọi là Linh kim bảo tạng, đặt niên hiệu là Thuận Thiên.” Nếu Bùi Cơ Túc không hàm ý “thế truyền” là truyền thuyết dân gian thì khả năng ông đã tham khảo tài liệu thành văn LSTL. Đoạn trên trích từ tiểu dẫn cho bài thơ Hàm Kiếm hồ (含劍湖) trong tập Long Biên bách nhị vịnh (龍編百二詠) soạn năm 1844 (năm Giáp Thìn đời Thiệu Trị). Long Biên bách nhị vịnh dù sao cũng chỉ được xem là sách cá nhân. Trong tính cách là thư tịch chính thức, lần thứ hai ta thấy trần thuật chuyện Lê Thái Tổ được gươm là ở Đại Nam nhất thống chí [《大南一統志·河内·還劍湖》(1865-1882)]:

“Hồ Hoàn Kiếm ở phía Đông Nam cửa thành Hà Nội. Tương truyền: Lê Thái Tổ du thuyền trên hồ, có con rùa lớn nổi lên, nhà vua cầm kiếm chỉ vào rùa. Rùa ngậm lấy kiếm lặn xuống. Lại có thuyết nói: Vua Thái Tổ trước kia bắt được kiếm thần và ấn thần, bèn dấy binh đánh giặc Minh, sau truyền làm bảo vật. Về sau đến thời Lê Thánh Tông, vào đêm vua băng, kiếm thần, ấn thần đều mất. Người đời sau thấy chuôi kiếm nổi ở giữa hồ, phút chốc lại chìm xuống, nên mới đặt tên hồ Hoàn Kiếm.” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2012, tr.1084). Nguyên văn: [還劍湖在省城東南門外。相傳黎太祖舟遊此湖,有大龜浮出,以寶劍指之,龜含劍而没。一云黎太祖初得神劍、神璽,乃起兵,因傳為世寳。及黎淳皇登遐之夕,神劍、神璽皆失。後人見其劍首浮於湖中,頃之復没。故名。]

Xin nhắc lại một lần nữa, Bùi Cơ Túc cũng như tác giả Đại Nam nhất thống chí có thể thực sự không có nguồn truyền khẩu dân gian nào nhưng vẫn không ngại dùng các từ “thế truyền”, “tương truyền” trong tự sự của mình. Trong lúc, ngược lại, vào thời hiện đại, tác giả Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (KTTCTVN) mệnh danh sưu biên truyện dân gian nhưng hoàn toàn có thể tham khảo và hoạt dụng tài liệu thành văn vậy. Ta hoàn toàn không cần thiết phải được biết cụ thể Nguyễn Đổng Chi có đọc Bùi Cơ Túc hay Đại Nam nhất thống chí. Nhưng ta hoàn toàn có quyền so sánh Sự tích Hồ Gươm (STHG) trong bộ KTTCTVN của ông với các tài liệu thành văn trong thư tịch đã có. Không khó để nhận ra rằng, STHG trong nửa đầu câu chuyện nó kể, thông tin cơ bản đến từ LSTL. Dĩ nhiên như ta thấy, LSTL chỉ thuật mỗi chuyện “được gươm”. Đến tiểu dẫn cho bài thơ Hàm Kiếm hồ trong tập Long Biên bách nhị vịnh của Bùi Cơ Túc cũng như kí tải của Đại Nam nhất thống chí tuy cũng có kèm ý kể chuyện để cắt nghĩa tên hồ nhưng dụng ý trần thuật của cả hai đều nhắm biểu đạt chủ đề “mất gươm”- báo hiệu thời suy vi của một triều đại (đây cũng là cảm quan chung của những trần thuật liên quan đến Hồ Hoàn Kiếm trong Sơn cư tạp thuật và Tang thương ngẫu lục). Tình tiết “mất gươm” trong các tự sự đó được kể ra như là một kết cục về sau của thanh gươm, khác với kết cấu hai phần “được gươm” và “trả gươm” của tự sự STHG. Đây chính là lí do vì sao mà chúng tôi lại quyết định dùng tiểu mục “Truy tầm chuyện “mượn gươm” hay là một sự nối kết sử kí” làm tiểu mục đầu cho bài viết này.

2. Kiến tạo cảnh “trả gươm” hay là một sự chắt lọc tự sự thành văn

Có vài tài liệu tự sự thành văn quan trọng còn lưu lại đến ngày nay liên quan truyền thuyết Hồ Hoàn Kiếm. Tài liệu thứ nhất là thiên “Vật quái” trong sách  Sơn cư tạp thuật (《山居雜述·物怪》) – tác phẩm dã sử viết bằng chữ Hán được xem là của tác giả Đan Sơn (1735- ?) biên soạn vào những năm quân Tây Sơn ra Bắc Hà diệt chúa Trịnh (khoảng 1786 – 1789). Thiên này có đoạn: “劍湖在京城之東,世傳高皇初,有大龜如蓋,浮水面,厭禱弗克。高皇以劍指之,龜矯首如有所望,高皇怒擲劍入湖,龜遂隱。帝命㪺水涸之,無所見,劍亦不知所在。”[3] (Tạm dịch: Hồ Gươm nằm ở phía Đông kinh thành, đời truyền rằng buổi đầu thời vua Thái Tổ, có con rùa to như cái lọng, nổi trên mặt nước, khấn yểm đều không xua được nó. Vua lấy kiếm chỉ vào nó, nó nghển cổ như ngóng nhìn. Vua tức giận ném kiếm xuống hồ, con rùa liền lẩn đi. Thái Tổ sai tát cạn nước hồ, nhưng không thấy nó đâu, kiếm cũng chẳng biết ở nơi nào.)

Tài liệu thứ hai là hai thiên cùng đề cập tới Hồ Hoàn Kiếm trong tác phẩm Tang thương ngẫu lục (《桑滄偶錄》) của Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) và Nguyễn Án (1770 – 1815) [《桑滄偶錄》Tang thương ngẫu lục (1896) – Kho tàng thư tịch cổ Hán Nôm hannom.nlv.gov.vn/hannom?a=d&d=BNTwEHieafWoC1896; Thiên Kiếm Hồ Tài liệu Page 18; Hoàn Kiếm Hồ Page 88-90]. Tang thương ngẫu lục có hai thiên liên quan Hồ Hoàn Kiếm. Theo ấn phẩm bản dịch của Đạm Nguyên (Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, 1962): Thiên thứ V (tr.32) để nhan đề “song ngữ”: “還劍湖 – Hồ Hoàn-Kiếm” (nhưng ở Mục lục đặt cuối sách lại thấy để nhan đề là: “Hồ Gươm – 劍湖”[4] (không đề tên tác giả Nguyễn Án hay Phạm Đình Hổ). Thiên thứ XXVII (tr.181) cũng để nhan đề song ngữ: “還劍湖 – Hồ Hoàn-Kiếm”, dưới nhan đề có đề tên tác giả Kính-Phủ); Mục lục cuối sách cũng nhan đề song ngữ nhưng để tiếng Việt lên trước: “Hồ Hoàn-Kiếm – 還劍湖”. Thiên thứ nhất kể chuyện “Mùa Hạ năm Bính-Ngọ, niên hiệu Cảnh-Hưng (1876), đương nửa đêm, giữa hồ Hoàn-Kiếm, bỗng có những vật đỏ ối hiện ra trên đảo, tia sáng nhoáng tỏa ra bốn phía, bay về bờ phía nam rồi biến mất. Sau đó, sóng gió ầm ầm nổi lên. Sáng hôm sau, thấy xác tôm cá nổi trên mặt nước không biết bao nhiêu mà kể. Có người nói, ở trên nóc nhà Trung-Hòa-Đường trong phủ Chúa cũng hiện ra những vật tương-tự, ánh sáng tỏa ra tứ phía, rồi tự nhiên tắt ngấm. Sau đó ít lâu, nhà Lê mất nước.” [tr.32-33]. Thiên này như vậy chỉ nhắc đến mô típ điềm triệu nhà Lê mất nước, ngoài thông tin tên hồ ra, không có ý gì nhắm tới đề tài trả gươm hay truyền thuyết gươm Lê Lợi, khác với trần thuật ở thiên thứ hai. Điềm triệu “vật đỏ ối hiện ra trên đảo, tia sáng nhoáng tỏa ra bốn phía, bay về bờ phía nam rồi biến mất” sau đó ở thiên thứ hai được cho là hình ảnh bay đi của thanh bảo kiếm: “Hồ Hoàn-Kiếm ở bên cạnh phường Báo-Thiên, thành Thăng-Long, thông với nước ngoài sông, hình thể rất to rộng. Hồ này là nơi đức Thái-Tổ Hoàng-Đế (triều trước) đánh rơi thanh kiếm. Hồi Thái-Tổ khởi nghĩa, ngài bắt được một thanh gươm cổ. Khi làm vua, Ngài thường vẫn đeo thanh gươm đó. Một hôm chơi thuyền ở trong hồ, chợt thấy một con ba-ba rất lớn nổi lên mặt nước, bắn nó không trúng. Ngài bèn lấy thanh gươm mà chỉ. Bất đồ, thanh kiếm rơi xuống nước mất, con ba-ba cũng lặn theo. Ngài giận, sai lấp cửa hồ lại, đắp cái bờ ngang, tát hết nước để tìm, nhưng chẳng thấy đâu cả. Đời sau nhân vết bờ ấy chia hồ ra làm hai: tả-vọng, hữu-vọng. Cuối đời Cảnh-Hưng, bỗng có một vệt sáng từ cái đảo trong hồ vọt lên cao, sáng rực tan ra rồi tắt, người ta cho là thanh bảo kiếm bay đi.” (Phạm Đình Hổ – Nguyễn Án, 1962, tr.181). Nguyên văn: 昇龍還劍湖在報天坊側,與江水通,勢甚廣闊,先朝太祖皇帝墜劍處也。初太祖起義時,得古劍一口,得國後嘗以自佩。一日泛舟湖中,巨黿浮水上,射之不中,以劍指之,墜水没,黿隨劍去。帝怒,命塞湖口,築堤竭水,求之不得。後世因其跡,分爲二左望、右望。 景興末有物從島起,光散而滅.人以爲寶劍飛去云。(khác với bản dịch Trúc Khê Ngô Văn Triện thống nhất “dịch” kiếm, Đạm Nguyên như ta thấy trên lúc dùng gươm  lúc dùng kiếm[5]).

Điều đáng chú ý là, khác với hầu hết các tác giả khác, Nguyễn Án ở đây không dùng từ “rùa” (quy) mà dùng từ “ba ba” (âm Hán Việt: ngoan/nguyên, chỉ ba ba hoặc con giải, là từ có độ sử dụng trung bình trong cổ Hán ngữ, khác với “quy” có mức sử dụng với tần suất cao). Có vẻ như Nguyễn Án đã tả thực “rùa Hồ Gươm” (mai mềm). [6]  Có thể nói, so với các tự sự liên quan Hồ Gươm hiện còn lưu bản đến ngày nay, thiên Hồ Hoàn-Kiếm của Nguyễn Án chi tiết, cụ thể hơn cả (Nguyễn Án nhà ở phường Báo Thiên, gần hồ; đồng tác giả Phạm Đình Hổ nhà ở phường Hà Khẩu – chỗ Hàng Buồm ngày nay), chắc tận mắt thấy “rùa hồ Gươm”! Thậm chí ngay cả tình tiết Lê Thái Tổ nổi giận sai bịt miệng hồ, đắp đê tát nước để tìm gươm dường như cũng điều có thể hiểu được (là hoàng đế ngài hoàn toàn có thể ra quyết định như vậy). Bất kể là thế nào thì trần thuật “Đời sau nhân vết tích phân làm hai hồ Tả Vọng và Hữu Vọng” của tác giả Tang thương ngẫu lục cũng tỏ ra rất quan trọng trong việc giúp ta “đọc” sâu hơn nữa truyền thuyết Hồ Gươm. Ta hoàn toàn có thể hiểu “đời sau” này dường như chỉ thời gian chí ít là từ ngày chúa Trịnh Tùng (1550 – 1623) bắc phạt đuổi nhà Mạc giành lại Thăng Long, hoàn thành sự nghiệp trung hưng triều Lê. Quay lại cựu đô, Nhà chúa đòi vua Lê phong Vương và bắt đầu xây dựng Phủ Chúa trên bờ Tây Hồ Gươm. Quần thể Vương Phủ chúa Trịnh được xây dựng suốt trong một thời gian dài (1592-1749).[7]


Rất có thể là ngay từ đầu công cuộc dự án đại xây cất này, con đường ngăn đôi Hồ Gươm thành Tả Vọng Hồ và Hữu Vọng Hồ đã được vẽ lại. Việc đắp một đường ngăn đôi – nhất là đối với địa thế hồ kéo dài trước cửa phía Đông phủ Chúa (Tuyên Vũ Môn) một đầu quành cong thông với sông Hồng để đi tắt qua bên kia hồ là điều có thể hiểu được.[8] Một đoạn trong Bài ký Sửa lại miếu Văn Xương cho thấy công việc này: “Hồ Hoàn Kiếm này đời xưa rất lớn, từ đời Lê trung hưng về sau chở đất về lấp làm đường xe chạy cho suốt đến Long Lâu ở Nhĩ Hà, nửa hồ bên hữu gọi là Hữu Vọng, nửa hồ bên tả gọi là Tả Vọng” (還劍古甚。大黎中興後壘土其中,位輦路達珥河龍樓。半湖之右名右望,半之左名左望) (Tuyển tập văn bia Hà Nội, tr.70-71). Các chúa Trịnh đã cho xây cất phía bên Tả Vọng Hồ các công trình như Lầu Ngũ Long (ngoài Tuyên Vũ Môn – cổng chính phía Đông Phủ Chúa, sát mép hồ; Tả Vọng Đình (được coi là ở vị trí Tháp Rùa hiện nay) và Cung Thuỵ Khánh (được cho là ở vị trí đền Ngọc Sơn và Tháp Bút hiện nay). Trong lúc bên Hữu Vọng Hồ là nơi thao duyệt thủy quân. Cho đến đời Tự Đức (1847–1883), hồ Hữu Vọng được gọi là hồ Thủy Quân. Và rồi từ năm 1884, hồ này rốt cuộc đã biến mất khi nhà cầm quyền Pháp thực hiện việc san lấp để xây dựng khu phố Tây đầu tiên tại Hà Nội.

Việc “khảo cứu” nguồn cơn hai từ “Tả Vọng” và “Hữu Vọng” như trên kể cũng hơi chi li nhưng bù lại nó sẽ giúp ta đọc hiểu sâu hơn đoạn trần thuật then chốt trong STHG:

Sau khi đuổi giặc Minh về được một năm, ngày hôm ấy Lê Lợi – bấy giờ đã là một vị thiên tử – cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi làn nước xanh. Theo lệnh vua, thuyền đi chậm lại. Vua đứng trên và nhận thấy lưỡi gươm thần đeo bên mình cũng đang cử động. Con rùa vàng không sợ người, nhô thêm nữa, tiến sát về phía thuyền vua. Nó đứng nổi lên trên mặt nước và nói: – Bệ hạ hoàn gươm cho Long quân! Nghe nói thế nhà vua bỗng hiểu ra, bèn thò tay rút gươm ra khỏi bao. Chỉ một lát thanh gươm thần rời khỏi tay vua bay đến phía rùa vàng. Nhanh như cắt, rùa ngước đầu lên, há miệng đớp lấy ngang lưỡi gươm. Cho đến khi cả gươm và rùa lặn xuống, người ta vẫn thấy có vệt sáng le lói dưới mặt nước hồ xanh. Khi những chiếc thuyền của bá quan tiến lên kịp thuyền rồng thì vua liền báo ngay cho họ biết: – Đức Long quân cho chúng ta mượn thanh gươm thần để trừ giặc Minh. Nay đất nước đã thanh bình, Người sai rùa lấy lại. Và từ đó, hồ bắt đầu được mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm. (Nguyễn Đổng Chi, 2014, tr.232-233).[9]


Nửa thiên niên kỉ đã trôi qua kể từ ngày Lê Thái Tổ dạo chơi Hồ Gươm. Rồi lại thêm trăm năm nữa trôi qua kể từ ngày thực dân Pháp san lấp phía Đông Nam hồ làm thay đổi hoàn toàn diện mạo của nó… Giờ đây những con rùa cuối cùng ở Hồ Gươm cũng đã thành tiêu bản. Chỉ có sự tích về hồ thì vẫn còn đó trong kí ức bao thế hệ người dân, không chỉ những người dân Thăng Long – Hà Nội sớm chiều có dịp tản bộ hay tập thể dục bên hồ mà là cả biết bao con người từng qua tuổi học trò đọc SỰ TÍCH HỒ GƯƠM trong sách giáo khoa Ngữ Văn thay vì nghe kể miệng như thủa xa xưa nào.[12] Ở đây, chúng tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề diện mạo “ban đầu” của Hồ Gươm. Như “Bản đồ kinh thành Thăng Long thời Hồng Đức” (xem PHỤ LỤC) cho thấy, hình dáng của hồ thủa đó quả khá giống với hình cây gươm (không phải kiếm). Chúng tôi cho rằng rất có thể đó là lí do thực của tên gọi Hồ Gươm. Tên Việt (gọi nôm) đó đã gợi ý hay vừa khéo có sự gặp gỡ với tích chuyện lịch sử để cấu thành truyền thuyết “trả gươm” lại là một câu chuyện cần được phân tích từ nhiều hướng. Bên cạnh đó việc ghi viết văn tự “(Hoàn) Kiếm” mà STHG kể một cách gọn lỏn “Và từ đó, hồ bắt đầu được mang tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn-kiếm” lại cũng là một câu chuyện đòi hỏi một khảo luận riêng.

Nguồn - Lê Thời Tân, Nguyễn Văn Phương, Dương Văn Duyên

PHỤ LỤC

Hình 1: Bản đồ kinh thành Thăng Long thời Hồng Đức 1490 [HỒNG ĐỨC BẢN ĐỒ 洪 德 版 圖, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.2499. Theo lời Lê Thước (ghi trong VHt. 41 và trong A. 2499) thì tập bản đồ này không phải vẽ vào thời Hồng Đức (1470-1497). Vì “Trung Đô” thời Hồng Đức mang tên là Vương Phủ (tờ 5a); chữ “Yên Bang” viết thành “Yên Quảng” (kiêng húy Lê Duy Bang, tờ 23a) “Tân Bình” viết thành “Tiên Bình” (Kiêng húy Lê Duy Tân, tờ 23b)]

Hình 1: Bản đồ kinh thành Thăng Long thời Hồng Đức 1490 [HỒNG ĐỨC BẢN ĐỒ 洪 德 版 圖, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.2499. Theo lời Lê Thước (ghi trong VHt. 41 và trong A. 2499) thì tập bản đồ này không phải vẽ vào thời Hồng Đức (1470-1497). Vì “Trung Đô” thời Hồng Đức mang tên là Vương Phủ (tờ 5a); chữ “Yên Bang” viết thành “Yên Quảng” (kiêng húy Lê Duy Bang, tờ 23a) “Tân Bình” viết thành “Tiên Bình” (Kiêng húy Lê Duy Tân, tờ 23b)]

Hình 2: Bản đồ thành Đông Kinh thời Hậu Lê  [THIÊN NAM LỘ ĐỒ 天南路圖, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.1081]

Hình 2: Bản đồ thành Đông Kinh thời Hậu Lê

[THIÊN NAM LỘ ĐỒ 天南路圖, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.1081]

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Đổng Chi. (2014). Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. TP. Hồ Chí Minh: NXB. Trẻ. tr.232-233
Ban Hán Nôm. (1978). Tuyển tập văn bia Hà Nội. Hà Nội: NXB. Khoa học Xã hội.
Phạm Đình Hổ-Nguyễn Án. (1962), Tang thương ngẫu lục (Đạm Nguyên dịch). Sài Gòn: Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản.
Phạm Đình Hổ-Nguyễn Án. (2016). Tang thương ngẫu lục (Trúc Khê dịch). Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
Ngô gia văn phái. (1984). Hoàng Lê nhất thống chí. TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ, tr 120
Bùi Cơ Túc. Long Biên bách nhị vịnh (龍編百二詠) – Hàm Kiếm hồ, Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, kí hiệu A.1310.
Thư viện quốc gia Việt Nam – Kho tàng thư tịch cổ Hán Nôm (10/12/2018). 《桑滄偶錄》Tang thương ngẫu lục (1896), thiên Kiếm Hồ, tr.18; Hoàn Kiếm Hồ, tr. 88-89. Từ nguồn hannom.nlv.gov.vn/hannom?a=d&d=BNTwEHieafWoC1896.
Nguyễn Trãi. (1431). Lam Sơn thực lục. Khai thác từ nguồn https://books.google.com.vn/books?id=awhq36_kJDgC
Quốc sử quán triều Nguyễn, (2012), Đại Nam nhất thống chí (Hoàng Văn Lâu dịch). Hà Nội: NXB Lao Động, tr 1084.
Chú thích:

[1] Tiểu dẫn cho bài Hàm Kiếm hồ trong tập Long Biên bách nhị vịnh (龍編百二詠), kí hiệu A.1310. Tác phẩm của Bùi Cơ Túc (Bùi Liên Khê 裴蓮溪) soạn thảo và viết tựa năm Thiệu Trị Giáp Thìn (1844). Một bản viết, 108 trang, 30,5×21, một tựa. Sách gồm 102 bài thơ vịnh danh thắng Long Biên (Hà Nội cổ) của thi nhân các đời: Hồ Tây, chùa Trấn Vũ, núi Khán Sơn,…

[2] Tên thường gọi là sông Lường. Sông Lương (Lương Giang) tức sông Chu (phụ lưu của sông Mã) chảy qua huyện Thọ Xuân. Sau ngày bình định quân Minh định đô Đông Kinh, Lê Thái Tổ cho dựng tại quê nhà đất tổ Lam Sơn cung điện Lam Kinh. Thành Lam Kinh trông ra sông Lương.

[3] Bản chép tay Sơn cư tạp thuật  tại Thư viện Khoa học xã hội (Hà Nội) ký hiệu A.822 (Thư viện Khoa học (Hà Nội) cũng có một bản chép tay khác có tên là Sơn cư tạp chí ký hiệu VHv.1835).

[4] Ở đây ta thấy “還劍湖” được “dịch” là “Hồ Hoàn Kiếm”, trong lúc “劍湖” được “dịch” là “Hồ Gươm”. Tạm gạt qua câu chuyện lịch sử văn hóa dân tộc và vấn đề tương tác Nôm-Hán, chỉ trên mặt chữ thuần túy tại đây ta có thể chấp nhận – chẳng hạn cách giải thích rằng cách viết  “劍湖” (Kiếm Hồ) chính là “rút gọn” của “還劍湖” (Hoàn Kiếm Hồ)?  

[5] Như đã nói Hồ Gươm-Hồ Hoàn Kiếm được Tang thương ngẫu lục đề cập ở hai thiên (một ở quyển thượng, một quyển hạ). Trúc Khê nhất loạt dịch “kiếm” (ngoại trừ nhan đề thiên thứ nhất dùng từ “gươm” – có lẽ mục đích của dịch giả chỉ là để phân biệt hai thiên với nhau).

[6] Về mặt phong cách học Hán Nôm, “quy” được cho là “chỉ chung” trong lúc “ngoan” (ba ba hay rùa mai mềm) được cho là “tả thực”. Học giả Việt Nam đương đại nói “rùa Hồ Gươm” thuộc giống Rùa mai mềm- Rafetus swinhoei (cũng có ở Hồ Đồng Mô). Nếu đúng thế thì dường như ta cũng thể nghĩ những cá thể “Cụ Rùa” Hồ Gươm ngày nay đó chắc là giống mà Nguyễn Án kể tả trong thiên dẫn trên trong Tang thương ngẫu lục?    

[7] Phủ Chúa đã bị vua Lê Chiêu Thống ngầm cho đốt năm 1786. Hoàng Lê nhất thống chí viết: “Sớm hôm sau, Hoàng thượng mới biết là Án Đô Vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả đốt hết phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt” (Ngô gia văn phái, 1984, tr.120).

[8] Xem dáng hồ trên hai bản đồ ở PHỤ LỤC bài viết này.

[9] Toàn đoạn trên dẫn từ ấn bản 2014 của NXB Trẻ. Có sự khác biệt cụ thể về “cách viết” các tên riêng giữa các ấn bản KTTCTVN qua nhiều lần xuất bản. Ngoài ra cũng nên chú ý những khác biệt câu chữ giữa bản in trong bộ sách với bản in trong sách giáo khoa Ngữ Văn 6 (NXB Giáo dục Việt Nam) mặc dù cuối văn bản thiên truyện có đóng mở ngoặc chua rằng “Theo Nguyễn Đổng Chi”.   

[10] Dĩ nhiên, chẳng hạn chả ai có thể ngăn được một độc giả “nhí” sau khi biết được Hồ Hoàn Kiếm xưa vốn thông với sông Hồng đọc Sự tích Hồ Gươm đến câu “Long quân sai rùa vàng lên đòi lại thanh gươm thần” bèn tự cắt nghĩa từ “lên” trong câu này là dùng để chỉ “lộ trình” sứ giả của đức Long Quân: Xuất phát dưới Long Cung biển khơi theo sông lớn vào hồ bái kiến nhà vua (!).

[11] Đạp quân thù xuống đất đen, Súng gươm vất bỏ lại hiền như xưa – Nguyễn Đình Thi.

[12] Cũng nên nhắc lại rằng Quốc-văn Giáo-khoa thư (Lớp Sơ-đẳng) trong bộ Việt Nam Tiểu học Tùng thư dạy-học trong hàng thập niên nửa đầu thế kỉ 20 có bài đọc (lecture) nhan đề “Hồ Hoàn Kiếm”.

 

Bình luận của bạn

Tin khác