Nhà phố Pháp tại Hà Nội đã hình thành từ hơn 100 năm trước, đã chứng kiến quá trình phát triển đô thị của khu vực trung tâm lịch sử của Hà Nội suốt thế kỷ XX và hơn 20 năm đầu thế kỷ XIX. Là một bộ phận của di sản kiến trúc thuộc địa Pháp tại Hà Nội, song khác với hai loại hình biệt thự và công trình công cộng xây dựng thời thuộc địa, nhà phố Pháp chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Cơ sở dữ liệu về nhà phố Pháp tại Hà Nội nói chung rất ít. Loại hình nhà ở đô thị này có những đặc điểm riêng và nhiều trường hợp có giá trị cao, cần được đánh giá kỹ lưỡng và đầy đủ để làm cơ sở cho việc bảo tồn bền vững trong bối cảnh có nguy cơ giảm sút về số lượng cũng như xuống cấp về chất lượng dưới tác động của nền kinh tế thị trường và quá trình đô thị hóa mạnh mẽ của Hà Nội trong những năm gần đây.
Bối cảnh hình thành và các giai đoạn phát triển nhà phố Pháp tại Hà Nội
Sự xuất hiện nhà phố Pháp gắn liền với quá trình hình thành và phát triển đô thị Hà Nội dưới thời thuộc địa. Những ngôi nhà phố Pháp đầu tiên ở Hà Nội được xây dựng khoảng năm 1885 trên phố Paul Bert (phố Tràng Tiền và Hàng Khay ngày nay) – là một phần của trục đường đầu tiên mà người Pháp xây dựng ở Hà Nội nối liền khu Nhượng địa với khu vực Thành cổ năm 1884 [1]. Tuy nhiên đa phần nhà phố Pháp bắt đầu được xây dựng đại trà từ năm 1920 theo năm xây dựng được ghi trên trán tường nhiều ngôi nhà hoặc theo năm thiết kế được ghi trên bản vẽ một số ngôi nhà còn lưu lại đến nay. Đây là giai đoạn mà cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của người Pháp được tiến hành trên quy mô lớn trên toàn xứ Đông Dương nhằm bù đắp những thiệt hại mà nước Pháp phải gánh chịu sau Thế chiến I (1914 - 1918). Để chấn hưng nền kinh tế tại chính quốc, chính quyền Pháp đã tăng cường đầu tư, qua đó bòn rút tài nguyên vật lực và tiêu thụ hàng hóa dư thừa, tại các thuộc địa nói chung và xứ Đông Dương nói riêng bằng cách mở rộng các đô thị và khuyến khích các hoạt động sản xuất, kinh doanh thương mại của tầng lớp cư dân bản xứ, thay vì cấm đoán hoặc hạn chế như trước [2]. Chớp lấy cơ hội này, các nhà thầu xây dựng của Pháp đã được cấp phép xây dựng nhiều dãy nhà phố thương mại mang phong cách kiến trúc thuộc địa Pháp trong các khu phố Pháp phía Tây (địa bàn quận Ba Đình ngày nay) và khu phố Pháp phía Nam (một phần quận Hoàn Kiếm và một phần quận Hai Bà Trưng ngày nay).
Trong khu phố Cổ của Hà Nội (một phần quận Hoàn Kiếm và một phần quận Ba Đình ngày nay), nhà phố Pháp cũng được xây dựng, song ở quy mô hạn chế hơn trong giai đoạn phát triển đầu tiên, bởi vì cấu trúc của khu phố Cổ cuối thế kỷ XIX đã ổn định trước khi người Pháp xâm chiếm Hà Nội. Người Pháp đã tôn trọng tối đa những ngôi nhà ống - kiểu nhà đô thị truyền thống Việt Nam, đã hiện diện từ trước trong khu phố Cổ và chỉ tiến hành xây chen nhà phố Pháp tại những lô đất còn trống hoặc thay thế cho những ngôi nhà ống đã hư hại vì hỏa hoạn hoặc mục nát sau nhiều năm sử dụng mà không được tu bổ. Những căn nhà phố Pháp đầu tiên được xây dựng trong Khu phố Cổ Hà Nội gần như cùng một thời điểm với các nhà phố Pháp trong các khu phố Pháp, tức là trong thập niên 1920, sau đó các chủ nhân người Việt cũng dần phá bỏ những ngôi nhà cũ để xây dựng những ngôi nhà nhiều tầng theo kiểu nhà phố Pháp [3].
Nhà phố Pháp được xây dựng trên quy mô lớn tại Hà Nội đã đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và/hoặc sinh hoạt kết hợp với kinh doanh của một bộ phận thị dân thời bấy giờ, nhất là giới trí thức và tư sản người Việt, người Hoa - những tầng lớp xã hội tiếp xúc sớm và thường xuyên với nền giáo dục và văn minh Pháp nên có đời sống văn hóa tinh thần và quan niệm thẩm mỹ chịu ảnh hưởng của Phương Tây ở các mức độ khác nhau, kể cả trong thẩm mỹ kiến trúc.
Hình 1: Lược sử phát triển của nhà phố Pháp ở Hà Nội
Quá trình phát triển nhà phố Pháp ở Hà Nội có thể được chia thành 06 giai đoạn chủ yếu:
Giai đoạn Hình thành (1920-1929) diễn ra trong bối cảnh cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của người Pháp được đẩy mạnh. Nhu cầu ở cũng như kinh doanh của một bộ phận cư dân đô thị hình thành và nhu cầu này cần được đáp ứng kịp thời; mô hình nhà phố khang trang và rộng rãi hơn, tiện nghi hơn được ưa chuộng và thay thế cho nhà ống nhỏ hẹp kiểu truyền thống. Nhà phố Pháp được xây dựng và phát triển mạnh ở khu phố Pháp, trong khi ở khu phố Cổ, nhà phố Pháp chỉ được xây dựng với số lượng ít và dưới dạng xây chen với các ngôi nhà truyền thống. Yếu tố thẩm mỹ kiến trúc nhà ở cũng được chú trọng và mang sắc thái mới, chịu ảnh hưởng của kiến trúc Phương Tây, thể hiện qua phong cách kiến trúc Tân cổ điển ở thể giản lược, đồng thời có sự kết hợp với một số yếu tố trang trí bản địa (Hình 1.1).
Giai đoạn Phát triển (1930 – 1945) diễn ra trong bối cảnh của Cuộc khủng hoảng kinh tế kinh tế thế giới 1929 – 1933 và sự tăng trưởng kinh tế trở lại cho đến khi nổ ra Thế chiến II (1939 – 1945). Nhu cầu ở cũng như kinh doanh tiếp tục gia tăng trong những năm 1930, sau đó có sự sụt giảm trong những năm Thế chiến II. Nhà phố Pháp tiếp tục phát triển trong ở khu phố Pháp và đặc biệt mạnh mẽ trong khu phố Cổ nơi những ngôi nhà ống bị phá bỏ để xây dựng những ngôi nhà mới. Bên cạnh phong cách Tân cổ điển, Art Déco và Đông Dương là hai phong cách mới hình thành và được áp dụng trên mặt tiền một số nhà phố Pháp giai đoạn này. Sự pha trộn giữa kiến trúc Phương Tây với kiến trúc bản địa được thể hiện rõ nét hơn so với giai đoạn trước (Hình 1.2).
Giai đoạn Bị tàn phá (1946 – 1947) diễn ra trong bối cảnh người Pháp quay trở lại xứ Đông Dương và cuộc chiến tranh Đông Dương nổ ra những ngày cuối năm 1946, Hà Nội trở thành chiến trường giao tranh ác liệt giữa quân đội Pháp và lực lượng Việt Minh từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1947. Việt Minh cho tản cư dân chúng khỏi Hà Nội và phát động chính sách “tiêu thổ kháng chiến”, tự triệt phá nhà cửa, đường xá, cầu cống..., trong đó có nhà phố Pháp, nhằm ngăn chặn bước tiến của quân đội Pháp. Sau hai tháng giao tranh, nhiều nhà phố Pháp cũng bị phá hủy hoặc hư hại do bom đạn (Hình 1.3).
Giai đoạn Hồi phục (1947 – 1954) diễn ra trong bối cảnh sau gần một năm giao tranh với lực lượng Việt Minh, người Pháp tái chiếm Hà Nội và tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh Đông Dương (1946 – 1954) nhằm khôi phục sự thống trị của Pháp ở Việt Nam. Tuy nhiên nỗ lực này không thành công buộc Pháp phải rút quân đội về nước theo Hiệp định Geneva năm 1954. Trong giai đoạn này, người Pháp mong muốn khôi phục Hà Nội để tiếp tục đóng vai trò là trung tâm hành chính của xứ Đông Dương thuộc Pháp. Nhà phố Pháp được xây dựng trên quy mô lớn hơn các giai đoạn trước nhằm thay thế cho những ngôi nhà bị phá hủy hoặc hư hại nặng do chiến tranh. Đến năm 1954, hệ thống nhà phố Pháp tại Hà Nội đã được định hình một cách hoàn chỉnh, trước khi quân đội Việt Minh tiếp quản Thủ đô (Hình 1.4).
Giai đoạn Ổn định (1955 – 1986) diễn ra trong bối cảnh hòa bình xen lẫn chiến tranh, 10 đầu sau khi tiếp quản Hà Nội, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành các chương trình phục hồi và phát triển kinh tế; từ năm 1966 đến năm 1972, công cuộc xây dựng và phát triển Hà Nội bị gián đoạn bởi hai cuộc chiến tranh phá hoại của Không lực Hoa Kỳ; sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975, mô hình kinh tế bao cấp được áp dụng trên cả nước đã triệt tiêu nhiều nguồn lực phát triển, khiến nền kinh tế sa sút, xã hội lâm vào khủng hoảng toàn diện. Nền kinh tế gần như không phát triển, các hoạt động xây dựng được nhà nước kiểm soát chặt chẽ nên thời kỳ này là giai đoạn khá “ổn định” đối với nhà phố Pháp, các ngôi nhà được “bảo tồn” một cách tự nhiên do hoàn cảnh thực tế chưa cho phép người dân tự chỉnh trang, cải tạo hoặc xây mới. Tuy nhiên các ngôi nhà cũng dần xuống cấp theo thời gian và do nhiều hộ gia đình sinh sống trong đó - kết quả của chính sách phân phối nhà ở của nhà nước sau khi tiếp quản thủ đô.
Giai đoạn Biến động (1987 đến nay) diễn ra trong bối cảnh Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6 tiến hành vào tháng 12 năm 1986 thông qua chính sách Đổi Mới. Nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều thay đổi quan trọng về kinh tế - xã hội cho thủ đô. Nhu cầu ở và nhu cầu kinh doanh đều tăng đột biến, tạo nên sức ép rất lớn lên các khu phố cũ của Hà Nội, các lô đất xây dựng nhà phố Pháp có sức hấp dẫn rất lớn đối với các tập đoàn và cá nhân kinh doanh bất động sản. Nhà phố Pháp suy giảm cả về số lượng lẫn chất lượng: Nhiều nhà đã bị đập bỏ để xây mới, một số nhà khác được cải tạo song không đúng nguyên bản hoặc bị cơi nới làm giảm đáng kể giá trị, số còn lại vẫn còn tương đối nguyên vẹn nhưng xuống cấp nhanh chóng vì không được bảo dưỡng hoặc tu sửa theo định kỳ. Dưới tác động của quá trình đô thị hóa thiếu sự kiểm soát, cảnh quan đô thị của các khu phố cũ đã biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, nhà phố Pháp cũng không nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng nói trên.
Những nghiên cứu về nhà phố Pháp tại Hà Nội
Trong cuốn sách Hanoï – Enjeux modernes d’une ville millénaire xuất bản năm 2002, François Charbonneau và Đỗ Hậu diễn giải những năm 1873 – 1920 là giai đoạn có sự chuyển tiếp giữa kiến trúc truyền thống và kiến trúc thuộc địa và những năm 1920 – 1954 là thời kỳ hưng thịnh của kiến trúc thuộc địa Pháp. Hai học giả cũng đã làm rõ sự biến đổi không mấy tích cực của kiến trúc Pháp trong nền kinh tế thị trường, khi bị cải tạo, chỉnh sửa không đúng nguyên bản, thậm chí là bị phá dỡ và xây mới theo phong cách hiện đại hoặc nhại cổ. Tuy nhiên, nhà phố Pháp lại không được đề cập đến do các tác giả chỉ tập trung làm rõ sự biến đổi của biệt thự Pháp. Chỉ riêng trường hợp nghiên cứu khu phố Bùi Thị Xuân với 15 lô phố và trên 700 nhà, nhà phố Pháp mới được nhắc tới cùng với các thể loại nhà khác khi tiến hành phân loại theo lô thửa và tính chất sử dụng [4].
Cuốn Hà Nội - chu kỳ của những đổi thay ấn hành năm 2005 của Piere Clément và Nathalie Lancret trình bày sự phát triển của đô thị Hà Nội qua 07 bản quy hoạch của người Pháp những năm 1873, 1890, 1902, 1911, 1925, 1935 và 1943. Trọng tâm nghiên cứu của ấn phẩm này là nhà công thự và biệt thự Pháp, chẳng hạn như Nhà hát Lớn và Phủ Toàn quyền Đông Dương, biệt thự số 3 phố Nguyễn Bỉnh Khiêm, … Nhà phố Pháp chỉ được nhắc đến ở một mức độ rất hạn chế, với ba ví dụ riêng lẻ về sự hình thành và biến đổi của ba trường hợp: 24 phố Nguyễn Văn Tố, 94 phố Hàng Bông và 112 phố Bùi Thị Xuân (nửa nhà phố, nửa biệt thự) [5].
Chương trình Phát triển Đô thị Tổng thể Thủ đô Hà Nội hợp tác giữa Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) và Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội tiến hành từ năm 2004 đến 2007, trong mục Dự án thí điểm đã đề cập tới vấn đề Bảo tồn và phát triển bền vững Khu Phố Cổ thông qua việc lựa chọn một ô phố và một tuyến phố ở phường Hàng Buồm để xây dựng quy hoạch. Quy hoạch phát triển ô phố theo đề xuất mong muốn đáp ứng các yêu cầu sử dụng hiệu quả quỹ đất hạn chế và tăng giá trị của đất; bảo tồn, khôi phục và tạo ra các giá trị truyền thống; tăng cường các hoạt động kinh tế với các giá trị truyền thống và mới; tăng cường mạng lưới xã hội, cộng đồng; nâng cao tính hấp dẫn và nguyên bản của các tuyến phố với sự an toàn và thoải mái. Tuy nhiên do phương án quy hoạch ô phố chỉ quan tâm bảo tồn nhà phố Pháp trên tuyến phố chính, lõi giữa ô phố và phần lớn nhà phố trên các tuyến phố còn lại được cải tạo thành Vùng phát triển bao gồm vườn cây trong lõi và các nhà mới nhiều tầng được xây dựng trên các tuyến phố nên không mang tính khả thi trong điều kiện đô thị Hà Nội hiện nay [6].
Trong nghiên cứu về Giá trị kiến trúc của nhà phố Pháp trong khu phố Pháp của Hà Nội, Nguyễn Quang Minh đã chỉ ra giá trị kiến trúc của nhà phố Pháp được thể hiện trên hai cấp độ kiến trúc và quy hoạch. Giá trị nổi bật về kiến trúc của nhà phố Pháp là sự hài hòa về tỷ lệ, phân vị và sự tinh tế của các chi tiết trang trí trên mặt đứng, trong một số trường hợp là mốc thời gian hoàn thành được đắp nổi ở giữa tường chắn mái. Ngoài ra, tính liên kết giữa các ngôi nhà tạo thành dãy liên tục và sự đa dạng hoặc thống nhất về phong cách giữa các ngôi nhà trong cùng một dãy cũng là các giá trị nổi bật của nhà phố Pháp [7].
Trong hai năm 2017 và 2018, Nguyễn Quang Minh đã tiến hành nghiên cứu Nhà phố Pháp trong Khu phố Cổ Hà Nội. Trong nghiên cứu này, tác giả đã đề cập tới lịch sử, sự phân bố và đặc điểm nhà phố Pháp trong khu phố cổ; xác định các giá trị nhà phố Pháp dưới góc nhìn toàn diện bao gồm giá trị kiến trúc và các giá trị khác, trên cơ sở đó đề xuất hệ thống tiêu chí đánh giá giá trị và xếp hạng nhà phố Pháp trong Khu phố Cổ của Hà Nội; từ đó đưa ra nguyên tắc và giải pháp bảo tồn những ngôi nhà có giá trị cao nhất phù hợp với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng ở trong ngôi nhà [8].
Năm 2018, Nguyễn Quang Vinh đã tiến hành nghiên cứu về nhận diện nhà phố Pháp trong Khu phố Pháp, trong đó tác giả đề cập tới các giá trị về niên đại, lịch sử, văn hóa, kiến trúc, cảnh quan đô thị. Từ đó nhận diện các đặc trưng và những biến đổi theo thời gian của nhà phố Pháp trong khu phố Pháp và kiến nghị về hướng bảo tồn và quản lý nhà phố Pháp tại đây [9].
Nhìn tổng quan về các nghiên cứu về nhà phố Pháp tại Hà Nội và so sánh với các nghiên cứu về biệt thự và công trình công cộng thời thuộc địa tại đây, chúng ta có thể nhận thấy biệt thự và công trình công cộng đã được nhiều học giả quốc tế tập trung nghiên cứu và nhiều cơ quan – viện nghiên cứu trong nước thực hiện các đề tài – chương trình cấp Bộ/Thành phố, và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã đưa ra các quy chế về quản lý và sử dụng các công trình loại này [10, 11], trong khi nhà phố Pháp hãy còn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống và chưa có quy chế về quản lý và sử dụng.
Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu là nhận diện, đánh giá và xếp hạng di sản nhà phố xây dựng từ thời Pháp thuộc ở khu vực trung tâm Hà Nội qua khoảng 1500 ngôi nhà còn tồn tại đến hiện tại nhằm giúp đưa ra các giải pháp bảo tồn bền vững cho bộ phận di sản này. Sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp, khảo sát thực địa - điều tra xã hội học và phỏng vấn cộng đồng, tham vấn chuyên gia, nghiên cứu trường hợp để có thể đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra và thu được kết quả. Những ngôi phố Pháp được đánh giá giá trị một cách tổng thể bao gồm giá trị về các mặt lịch sử-văn hóa, niên đại, tính bảo tồn công năng, tính nguyên bản, bên cạnh giá trị về mặt kiến trúc và cảnh quan đô thị.
Phương pháp đánh giá, xếp hạng nhà phố Pháp tại Hà Nội
Cơ sở xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá các giá trị:
Nhà phố Pháp tại Hà Nội không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc và cảnh quan đô thị, mà có giá trị về các mặt lịch sử-văn hóa, giá trị về niên đại, tính bảo tồn công năng và tính nguyên bản. Vì vậy trong nghiên cứu này, ngoài các giá trị về kiến trúc và cảnh quan đô thị thông qua việc khảo sát tại hiện trường, chúng tôi còn đi vào việc đánh giá các giá trị nêu trên thông qua việc phỏng vấn người dân đang sống hoặc làm việc trong các ngôi nhà di sản kết hợp với khảo sát hiện trường.
- Giá trị lịch sử-văn hóa: Một số ngôi nhà có liên quan đến một sự kiện lịch sử của Việt Nam và/hoặc tới danh nhân lịch sử, ví dụ nhà số 48 phố Hàng Ngang là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Giá trị văn hóa thể hiện ở một số ngôi nhà có liên quan từng là nơi ở/làm việc của danh nhân văn hóa, ví dụ nhà 108 Hàng Bông từng là nơi ở của danh y Nguyễn Ngọc Doãn; Nghề truyền thống ở một số phố nghề vẫn được vài hộ gia đình duy trì đến ngày nay như phố Hàng Đường chuyên làm mứt và ô mai, phố Hàng Thiếc và Lò Rèn chuyên gia công các đồ dùng bằng kim loại, phố Hàng Bạc nổi tiếng với nghề kim hoàn, phố Hàng Đồng bày bán lư hương, hạc đồng, lọ hoa đồng bày bàn thờ, phố Hàng Mã sản xuất các đồ chơi dân gian cho trẻ em cũng như đồ vàng mã cúng tổ tiên, thần linh, phố Lãn Ông chuyên bán dược liệu thảo mộc, ... cũng được coi giá trị văn hóa; Trong cách trang trí mặt đứng ngôi nhà có sự kết hợp các họa tiết, hoa văn kiểu Pháp, Trung Hoa và bản địa cũng cho thấy giá trị giao lưu văn hóa trong kiến trúc ngôi nhà.
- Giá trị về niên đại thể hiện qua thời điểm xây dựng ngôi nhà, các ngôi nhà phố thời thuộc địa được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1954 nên một phần giá trị của ngôi nhà phụ thuộc vào năm xây dựng của nó. Mặc dù năm xây dựng chỉ có thể xác định một cách chính xác trên một số nhỏ ngôi nhà có đắp nổi năm hoàn thành việc xây dựng trên trán tường hay các ngôi nhà còn giữ lại được giấy tờ nhà đất, các ngôi nhà còn lại có thể xác định tương đối thời điểm xây dựng thông qua phương pháp phỏng vấn chủ nhà hoặc thông qua phong cách kiến trúc mặt đứng.
- Tính bảo tồn công năng thế hiện qua việc ngôi nhà còn giữ được công năng ban đầu là nơi ở của một gia đình hay đã chuyển thành nơi ở của nhiều gia đình hay thậm chí đã thay đổi hoàn toàn công năng ví dụ như đã trở thành trụ sở cơ quan, điều này quan trọng vì nó ảnh hưởng tới mặt đứng công trình thông qua các biển tên cơ quan, khẩu hiệu hay các vật trang trí tạm thời khác....
- Tính nguyên bản thể hiện qua mức độ gìn giữ hình khối công trình, các bộ phận và chi tiết gần với “bản gốc”. Công trình đã xuống cấp, nếu được chỉnh trang, sửa chữa đúng với trạng thái ban đầu nhờ có tài liệu lưu trữ đầy đủ (bản vẽ thiết kế, ảnh chụp xưa...) vẫn được chấp nhận, chứ không nhất thiết phải duy trì tình trạng nứt vỡ, bong tróc, rêu phong mới được coi là giữ được tính nguyên bản.
- Giá trị kiến trúc của nhà phố được thể hiện trên mặt đứng do nhà phố là những ngôi nhà được xây dựng liền kề nhau, với những nhà ở giữa dãy giá trị kiến trúc của công trình chỉ được thể hiện trên một mặt đứng nhìn ra phố, với những ngôi nhà ở góc phố sẽ có thêm mặt đứng thứ hai được lộ diện và được quan sát cũng như cảm thụ tốt hơn. Giá trị kiến trúc của nhà phố thể hiện qua tỷ lệ tương quan giữa chiều rộng chiều cao của mặt đứng, điểm nhấn, phân vị ngang, phân vị dọc, sự hài hòa của các thành phần cửa đi, cửa sổ, ban công, cấu kiện, chi tiết và đặc biệt là các họa tiết trang trí. Sự thể hiện một phong cách kiến trúc rõ ràng hoặc kết hợp hài hòa giữa các phong cách cũng được tính vào giá trị kiến trúc với những nét đặc trưng, đại diện cho từng phong cách.
- Giá trị cảnh quan đô thị thể hiện qua vị trí của ngôi nhà. Theo đó, giá trị của ngôi nhà sẽ tăng nếu được xây dựng ở các khu vực có nhiều hoạt động kinh doanh hay du lịch nơi có nhiều người có thể ngắm nhìn, ngôi nhà tọa lạc ở các vị trí đẹp như ngã ba, ngã tư, nơi căn nhà có điểm nhìn tốt ra khoảng không gian tương đối rộng, hoặc trên các tuyến phố chính với chiều rộng đủ lớn, giúp công trình có thể được quan sát dễ dàng hơn và cảm nhận đầy đủ từ xa tới gần. Vì là nhà liền kề nên tính liên kết giữa các ngôi nhà tạo thành dãy là tiêu chí cần xem xét. Theo đó các ngôi nhà được ghép đôi hoặc tạo thành bộ ba, bộ bốn, hoặc nhiều hơn nữa sẽ có giá trị hơn là nhà đứng đơn độc. Các căn nhà có thể giống hệt nhau hoặc tương tự nhau hoặc khác nhau về hình thức. Nếu có sự tương đồng sẽ tạo nên sự thống nhất. Như vậy, ứng với mỗi trường hợp sẽ có một giá trị riêng và cần được xem xét cụ thể.
Hệ thống tiêu chí đánh giá giá trị và phân loại nhà phố Pháp tại Hà Nội:
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm của nhà phố Pháp tại Hà Nội và các giá trị của những ngôi nhà này đã được phân tích, hệ thống tiêu chí đánh giá và thang điểm chi tiết được đề xuất trong bảng dưới đây. Trong số 06 giá trị kể trên, giá trị kiến trúc được thể hiện trên mặt đứng ngôi nhà là quan trọng nhất nên được nhiều điểm nhất (52/100 điểm). Bảng này có thể được sử dụng để đánh giá giá trị của từng ngôi nhà di sản và đưa vào hồ sơ của ngôi nhà.
Bảng: Hệ thống tiêu chí đánh giá giá trị nhà phố Pháp và thang điểm cho từng tiêu chí:
Tiêu chí lớn |
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
1. Giá trị lịch sử - văn hóa (LV) |
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2. Giá trị niên đại (NĐ) |
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
3. Tính bảo tồn công năng (BT) |
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
4. Tính nguyên bản (NB) |
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
5. Giá trị kiến trúc mặt đứng (MĐ) |
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
6. Giá trị cảnh quan đô thị (CĐ) |
|
|||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Mức điểm của từng ngôi nhà (ĐN) trong tổng số 1485 ngôi nhà phố còn tồn tại cho đến nay (tháng 7 năm 2022) đã được nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát sẽ được chấm điểm dựa trên tổng số điểm của 06 giá trị đã nêu trong Hệ thống tiêu chí đánh giá giá trị nhà phố Pháp và được tính theo công thức:
ĐN = LV + NĐ + BT + NB + MĐ + CĐ [1]
Mỗi nhà phố Pháp sẽ được 4 thành viên trong nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành chấm điểm độc lập. Mức điểm của ngôi nhà sẽ là giá trị trung bình cộng có điều chỉnh để bỏ qua các trị số nhỏ hơn số 0 do toàn bộ thành viên trong nhóm nghiên cứu thống nhất.
Đề xuất xếp hạng nhà phố Pháp tại Hà Nội:
Đề xuất xếp hạng các ngôi nhà phố Pháp tại Hà Nội nhằm làm rõ mức độ giá trị của từng ngôi nhà. Việc xếp hạng sẽ giúp các nghiên cứu về bảo tồn nhà phố Hà Nội theo xu hướng bền vững về các mặt kinh tế, xã hội và cảnh quan đô thị, có thể đưa ra các giải pháp bảo tồn tương ứng với giá trị ngôi nhà và toàn dãy phố.
Giá trị của các ngôi nhà phố Pháp ở Hà Nội sẽ được xếp hạng dựa trên mức điểm (ĐN) mà nó đạt được. Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm của nhà phố Pháp tại Hà Nội đã được trình bày trong mục 2.2, nhóm nghiên cứu đề xuất 04 nhóm giá trị:
- A, nhóm nhà có giá trị đặc biệt: Tổng số điểm từ 76 đến 100 (trong đó số điểm mặt đứng không nhỏ hơn 38).
- B, nhóm nhà có giá trị cao: Tổng số điểm từ 51 đến 75 (trong đó số điểm mặt đứng không nhỏ hơn 25).
- C, nhóm nhà có giá trị trung bình: Tổng số điểm từ 26 đến 50.
- D, nhóm nhà có giá trị thấp: Tổng số điểm từ 0 đến 25.
Kết quả đánh giá, xếp hạng nhà phố Pháp ở Hà Nội
Các trường hợp nghiên cứu:
Tiêu chí chọn trường hợp nghiên cứu:
Nhóm nghiên cứu chọn 04 ngôi nhà để minh họa cho quá trình chấm điểm và xếp hạng dựa trên 03 tiêu chí:
- Các ngôi nhà nghiên cứu đại diện cho 04 nhóm giá trị do nhóm nghiên cứu đề xuất: Nhóm nhà có giá trị đặc biệt, Nhóm nhà có giá trị cao, Nhóm nhà có giá trị trung bình và Nhóm nhà có giá trị thấp.
- Các ngôi nhà nghiên cứu đại diện cho hai phong cách chủ đạo trên mặt đứng nhà phố Pháp tại Hà Nội là Beaux-Arts và Art Deco.
- Các ngôi nhà nghiên cứu được phân bố ở cả hai khu phố có nhà phố Pháp là khu phố Cổ và khu phố Pháp.
Các ngôi nhà nghiên cứu:
- Nhà 127-129 phố Phùng Hưng: Xây dựng năm 1922 (ghi trên đỉnh mái); mặt đứng theo phong cách Beaux-Arts; rộng 15m, cao 12m; mặt đứng tầng 1 còn tương đối nguyên ven, mặt đứng tầng 2 còn nguyên vẹn (cánh trái nhà đang được tu sửa theo đúng nguyên bản); cả 2 hộ dân trong ngôi nhà đều kinh doanh vòng hoa phục vụ tang lễ.
- Nhà 7 phố Hàng Ngang: Xây dựng khoảng những năm 1930 (theo phong cách kiến trúc); mặt đứng theo phong cách Art Deco; rộng 10m, cao 15m; mặt đứng các tầng được giữ đúng nguyên bản, có một số cấu tạo che nắng tạm thời được thêm vào; vẫn giữ được chức năng nhà ở-cửa hàng, tuy nhiên phần cửa hàng ở tầng một được chia cho 2 hộ kinh doanh.
- Nhà 78 phố Tuệ Tĩnh: Xây dựng năm 1932 (theo năm thiết kế ghi trên bản vẽ + 1); rộng 5m, cao 10m; chức năng đã thay đổi từ nhà ở thành nhà ở-cửa hàng.
- Nhà 12 phố Đặng Dung: Xây dựng khoảng những năm 1920 (theo năm xây dựng ghi trên mặt đứng các ngôi nhà gần đó); rộng 6m, cao 8m; mặt đứng tầng 1 đã làm lại, mặt đứng tầng 2 xuống cấp nghiêm trọng; chức năng đã thay đổi từ nhà ở thành nhà ở-cửa hàng.
Nhà 127-129 phố Phùng Hưng
Nhà 7 phố Hàng Ngang
Nhà 78 phố Tuệ Tĩnh
Nhà 12 phố Đặng Dung
Tiêu chí lớn |
A: Nhà 127-129 Phùng Hưng | B: Nhà 7 Hàng Ngang | C: Nhà 78 Tuệ Tĩnh | D: Nhà 12 Đặng Dung | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Giá trị lịch sử - văn hóa (LV) |
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2. Giá trị niên đại (NĐ) |
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
3. Tính bảo tồn công năng (BT) |
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
4. Tính nguyên bản (NB) |
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
5. Giá trị kiến trúc mặt đứng (MĐ) |
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
6. Giá trị cảnh quan đô thị (CĐ) |
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tổng số | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xếp hạng |
Kết luận
Nghiên cứu đã đề xuất một phương pháp thay thế để đánh giá trị nhà phố Pháp ở Hà Nội, trong phương pháp này, ngoài giá trị về kiến trúc nhóm nghiên cứu còn quan tâm đến các giá trị về lịch sử-văn hóa, niên đại, tính bảo tồn công năng, tính nguyên bản và giá trị cảnh quan đô thị. Phương pháp được đưa ra dựa trên các nghiên cứu mang tính hệ thống và khoa học nhằm tạo tiền đề cho những bước chuẩn bị cho một kế hoạch quản lý và bảo tồn bền vững di sản nhà phố Pháp trong tương lai. Phương pháp dựa trên hoạt động của nhóm nghiên cứu về nhà phố Pháp tại Hà Nội nhưng cũng có thể áp dụng cho các đô thị lịch sử tương tự ở Việt Nam và có thể là tài liệu tham khảo cho việc đánh giá nhà phố thực dân (colonial shophouse) ở các nước khu vực Đông Nam Á do tính tương đồng về lịch sử và văn hóa.
Việc xác định các giá trị của từng ngôi nhà sẽ dẫn tới việc phân loại các ngôi nhà thành các nhóm giá trị từ A đến D. Việc phân nhóm giá trị tạo điều kiện thuận lợi cho việc quyết định về quản lý và bảo tồn, các ngôi nhà trong cùng một nhóm có thể dẫn tới những chính sách quản lý và bảo tồn như nhau.
Do vậy, phương pháp đánh giá này có thể là cơ sở để các cơ quan quản lý kiến trúc, quy hoạch và xây dựng của Hà Nội áp dụng, đưa ra các giải pháp quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản nhà phố phong cách thuộc địa Pháp. Chính quyền các đô thị lịch sử khác ở Việt Nam cũng có thể tham khảo, áp dụng phương pháp đánh giá này là bước đi đầu tiên trong quá trình nghiên cứu vạch ra các chính sách về quản lý, bảo tồn bền vững di sản nhà phố Pháp.
Trần Quốc Bảo, Nguyễn Quang Minh, Nguyễn Hải Vân Hiền, Vũ Hương Lan, Đặng Việt Long
Tài liệu tham khảo:
1. Andre Masson (1929), Hanoi pendant le Période Héroique (1873 – 1888), Oriental Library Paul Gautner, Paris.
2. Trần Huy Liệu (2000), Lịch sử thủ đô Hà Nội, NXB Hà Nội, Hà Nội.
3. Trần Hùng, Nguyễn Quốc Thông (2004), Thăng Long - Hà Nội, mười thế kỷ đô thị hoá, NXB Xây dựng, Hà Nội.
4. François Charbonneau & Do Hau (2002), Hanoi – Enjeux modernes d’une ville millénaire, Éditions Trames, Montréal.
5. Pierre Clément & Natalie Lancret (2005), Hà Nội – Chu kỳ của những đổi thay, NXB Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
6. Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản và Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội (2007), Chương trình Phát triển Đô thị Tổng thể Thủ đô Hà Nội (HAIDEP), Báo cáo cuối cùng, Hà Nội.
7. Nguyễn Quang Minh (2015), Giá trị kiến trúc của nhà phố Pháp trong khu phố Pháp của Hà Nội,
8. Nguyễn Quang Minh (2017, 2018), Nhà phố Pháp trong Khu phố Cổ Hà Nội, tạp chí Kiến trúc các số 11/2017, 12/2017, 1/2018.
9. Nguyễn Quang Vinh (2018), Nhà phố Pháp trong khu phố cũ của Hà Nội: Di sản bị lãng quên, cần nhận diện để bảo tồn, tạp chí Kiến trúc các số 10/2018.
10. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội (2013), Quy chế quản lý, sử dụng nhà biệt thự cũ được xây dựng trước năm 1954 trên địa bàn thành phố Hà Nội.
11. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội (2014), Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc Khu phố cũ Hà Nội.
(Bản tiếng Anh đã đăng trên tạp chí International Journal of Sustainable Construction Engineering and Technology số 4/2023)
Bình luận của bạn