Kiến trúc ở Hà Nội xưa, người Pháp cũng "bắt chước" người An Nam

Thứ 4, 02/10/2024, 17:19 (GMT+7)

Chia sẻ

Không chỉ người Việt Nam mà rất nhiều người từ châu Âu cũng quan tâm, thích thú các công trình này. Rất nhiều sách báo của châu Âu, đặc biệt của Pháp viết về các công trình ấy. Trong số các cuốn sách đó thì cuốn sách “Kiến trúc của Việt Nam thời thuộc địa: Nhìn lại phong cách hỗn hợp” (Caroline Herbelin, Architectures du Vietnam colonial : Repenser le métissage, Paris : INHA, 2016) của bà Caroline Herbelin, giảng viên Lịch sử đại học Toulouse II-Jean Jaurès, kiêm chủ tịch hội Nghiên cứu Đông Nam Á (AFRASE) theo tôi rất thú vị.

Toà nhà Viễn Đông bác cổ (nay là Bảo tàng lịch sử VN) chụp khoảng thập niên 1960.

Toà nhà Viễn Đông bác cổ (nay là Bảo tàng lịch sử VN) chụp khoảng thập niên 1960.

Hà Nội ngoài các công trình cổ có tuổi đời nhiều thế kỷ như Hoàng thành Thăng Long, Văn Miếu Quốc Tử Giám, đền chùa, các khu phố cổ mang tên “Hàng”… thì các công trình kiến trúc mang dấu ấn phương Tây kết hợp với phong cách bản địa vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX luôn được các giới chuyên môn quan tâm.

Trong bài loạt bài “Hà Nội: Chuyện cũ, chuyện mới” hôm nay tôi giới thiệu về các công trình kiến trúc cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX qua lăng kính của một nhà chuyên môn người Pháp.

Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là “một công trường lớn” theo tài liệu còn lưu giữ lại. Với những công trình như Nhà thờ Đức Bà, Bưu điện Trung tâm hay Dinh xã Tây – Hôtel de Ville (nay là trụ sở UBND TP Hồ Chí Minh), Sài Gòn được mệnh danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông”!

Với Nhà hát lớn, phố Paul Bert (nay là Tràng Tiền), Nhà thờ lớn, Nhà thờ Cửa Bắc, Dinh Toàn quyền Đông Dương (nay là Phủ Chủ tịch), Hà Nội được ví như “một Paris thu nhỏ”! Vậy cảnh quan kiến trúc Việt Nam, trong đó có Hà Nội, thay đổi như thế nào trong suốt một thế kỷ Pháp thuộc.

Trong thời kỳ đầu Pháp xâm chiếm Việt Nam (những năm 1860) đến khi công cuộc bình định kết thúc (những năm 1880), chính người Pháp phải thích nghi với kiến trúc địa phương. Khi tới Việt Nam, người Pháp không mang theo thợ nề hay chủ thầu mà chỉ có vài kỹ sư quân sự và không có đội ngũ xây dựng và thiết bị kèm theo. Chính vì do thiếu nơi trú ngụ nên các toán quân Pháp phải tịch thu đền chùa của dân địa phương để ở và làm nơi đóng quân.

Theo những gì được kể lại trong các bức thư của công chức, sỹ quan Pháp gửi về cho gia đình bên Pháp thì cho đến đầu thế kỷ XX, vẫn còn rất nhiều quân nhân và người Pháp tại Hà Nội và các vùng xung quanh sống trong những ngôi nhà dựng bằng tranh, tre nứa lá. Cũng có rất nhiều người Pháp sống trong những ngôi nhà ống nhiều gian. Cho đến tận năm 1932, ở Hà Nội, gần 35% người châu Âu vẫn phải sống trong những ngôi nhà như vậy.

Cầu Long Biên – Hà Nội (ảnh chụp khoảng năm 1910)

 Cầu Long Biên – Hà Nội (ảnh chụp khoảng năm 1910)

Thế nhưng, sau này, sự hiện diện của Pháp đã tác động mạnh đến quá trình đô thị hóa. Ví dụ, từ một trung tâm nhỏ, Hải Dương nhanh chóng phát triển nhờ vào Nhà máy Rượu Đông Dương. Ngoài quá trình đô thị hóa, cảnh quan kiến trúc cũng thay đổi nhờ chính quyền Pháp xóa bỏ nhiều đạo luật hạn chế chi tiêu mang tính bắt buộc (do triều Nguyễn ban hành). Kể từ đó, người dân có thể xây nhà tầng và được tự do trang trí.

Khi người Pháp bắt đầu xây cất các công trình ở Việt Nam thì những công trình được xây dựng rất đồ sộ, được chính quyền thuộc địa cho xây dựng và hoàn toàn khác biệt, xa lạ với người Việt Nam. Chúng mang chuẩn phong cách Pháp, cứ như được bê thẳng từ bên “mẫu quốc” sang!

Đó là những công trình phục vụ cho chính sách “thị uy” của chính quyền thuộc địa để “gây ấn tượng với người dân địa phương”… Dinh Toàn quyền xây năm 1873 (hay còn gọi là Dinh Xã tây, nay là trụ sở UBND TP HCM)) ở Sài Gòn là một tòa nhà rất lớn nằm giữa trung tâm Sài Gòn, là ví dụ cho loại hình đồ sộ này.

Thế nhưng dần dần có sự thay đổi trong cách xây dựng của người Pháp. Vì lúc này, chính quyền thuộc địa cho rằng hình ảnh uy quyền của Pháp cần được thể hiện qua đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, như hệ thống đường sắt, cầu cống…hơn là những tòa nhà công đồ sộ, sừng sững nhưng lại không vĩ đại. Hơn nữa, chính quyền thuộc địa cũng bị hạn chế về ngân sách nên không thể làm tất cả cùng một lúc.

Dinh Toàn quyền (Phủ Chủ tịch hiện nay) được xây ở Hà Nội sau đó (từ 1900 đến 1907) đi theo ý tưởng này. Trên thực tế, tòa nhà ở Hà Nội bị thu nhỏ khoảng 1/3 so với thiết kế ban đầu. Nếu làm đúng theo thiết kế ban đầu thì nó phải lớn gấp 3 lần toà nhà hiện nay!

Tác động của người Pháp đối với việc xây dựng là lớn nhưng không phải là tất cả. Việc xây dựng thành phố Hà Nội, trong đó có những ngôi biệt thự xinh đẹp, còn được thực hiện nhờ người Việt. Bởi lẽ khi đó rất nhiều người Việt Nam giàu có và “Tây học” muốn xây nhà cho mình theo kiểu các biệt thự của người Âu nhưng có tính đến đặc thù khí hậu nóng ẩm xứ nhiệt đới cộng với tập quán và phong thuỷ. Điển hình cho các công trình kiểu này là các biệt thự xinh xắn ở các phố xung quanh hồ Thiền Quang (khi đó gọi là hồ Hale) hoặc dinh thự của Tổng đóc Hà Đông Hoàng Trọng Phu (nay là Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội).

Mặt khác, người Pháp ở xứ lạnh, khi sang sinh sống ở xứ nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm họ thấy cũng cần phải có nhà ở thích nghi với điều kiện này. Không thể “bê” nguyên xi các mẫu nhà từ Pháp sang được!

Điển hình trong việc này là toàn quyền Albert Sarraut (hai nhiệm kỳ 1911-1913 và 1916-1919), ông ta muốn áp dụng chính sách hợp tác, ngoài chuyện hứa hẹn để giới “tinh hoa” Việt Nam cùng tham gia chính quyền thì trong lĩnh vực văn hóa, ông ta muốn đề cao nền văn hóa của các nước Đông Dương. Vì thế, trong thời gian đương nhiệm, phủ toàn quyền ở Hà Nội và các căn hộ riêng của các công chức hàng đầu người Pháp, kể cả phòng ngủ của Albert Sarraut được bài trí bằng những đồ vật và đồ gỗ chạm trổ họa tiết Việt Nam!

Ở thời kỳ này rất nhiều các công trình kiến trúc ở Hà Nội được xây theo phong cách mà người ta gọi là “phong cách Đông Dương”. Đó là phong cách hỗn hợp do kiến trúc sư Ernest Hébrard khởi đầu.

Ông Ernest Hébrard là kiến trúc sư nổi tiếng. Ông từng được trao giải thưởng lớn Roma và ông đến Đông Dương vào năm 1921, theo lời mời của một số người thân cận với toàn quyền Sarraut.

Ông Ernest Hébrard được giao nhiệm vụ thiết kế một số công trình nhà nước thuộc địa. Các công trình đó phải làm sao vừa thể hiện được sự hiện diện của Pháp, vừa pha trộn được hai nền văn hóa Pháp-Việt. Rất tâm huyết với nhiệm vụ này, Hébrard tạo ra được một phong cách lấy cảm hứng từ những ngôi nhà Việt Nam, đặc biệt là cấu trúc của những ngôi này, vừa mang nét phương Tây, vừa thích nghi với khí hậu nhờ hiên nhà hay mái vươn dài .

Tuy nhiên, phong cách Đông Dương lại tốn kém. Có thể kể một vài công trình nổi tiếng nhất theo kiểu pha trộn này Sở Tài chính Đông Dương (nay là trụ sở bộ Ngoại Giao Việt Nam), Nhà thờ Cửa Bắc…

Người Pháp đánh giá Bảo tàng Lịch sử (trước là bảo tàng Louis Finot hay còn gọi là Viễn đông bác cổ) được hoàn thành năm 1931 là công trình đẹp nhất mang phong cách Đông Dương.

Nguồn - Nguyễn Văn Ất

Biên tập: 36phophuong.vn;  Nhà tài trợ: Nhà Hàng Bia Hơi 1b Bắc Sơn 

Bình luận của bạn

Tin khác