Đình – Chùa Khuyến Lương (Hoàng Mai, Hà Nội)

Thứ 6, 07/02/2025, 23:46 (GMT+7)

Chia sẻ

Làng Khuyến Lương có tên nôm là Mai Chợ, vốn thuộc khu vực Kẻ Mơ khi xưa. Thời Trần nằm trong thái ấp của bậc danh tướng, trung thần Trần Khát Chân. Theo quy hoạch thái ấp thời đó, Khuyến Lương là vùng trồng dâu nuôi tằm, nghề này đã gắn bó với dân làng Khuyến Lương trong suốt mấy trăm năm. Đầu thế kỷ XV, khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn bao vây quân Minh xâm lược ở Thăng Long, Khuyến Lương nằm trong địa điểm tập kết quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn.

Đình Khuyến Lương

Đình Khuyến Lương thờ vị tướng quân nổi tiếng thời Trần là Trần Khát Chân. Trần Khát Chân (1370-1399), là bậc danh tướng cuối thời Trần, thuộc dòng dõi Bảo Nghĩa Vương, quê làng Hà Lăng, huyện Vĩnh Ninh (nay thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh). Cha ông là một thầy lang. Ông sinh năm 1370 (Canh Tuất). Ngay từ nhỏ, ông đã là người ham học. 18 tuổi, chàng trai Trần Khát Chân đã có tiếng là văn võ song toàn. Năm 1388 (năm Mậu Thìn), ông thi đỗ Thái học sinh.

Trần Khát Chân được biết đến là vị tướng lãnh đạo quân đội Việt chống lại các đợt tấn công của quân Chiêm Thành. Khi nhà Trần bước vào giai đoạn suy yếu, quân Chiêm Thành nhân đó nhiều lần theo đường thủy ra đánh cướp, đặc biệt dưới thời chúa Chiêm Thành là Chế Bồng Nga. Năm 1389, quân Chiêm tiến đánh, Thượng hoàng sai Trần Khát Chân đem quân Long Tiệp đi chặn giặc. Nắm rõ tình hình quân địch và đường tiến quân của chúng, ngày 23 tháng Giêng năm Canh Ngọ 0, ông cho phục binh ở ngã ba sông Hải Triều và sông Nhị Hà (sông Hồng). Do được quân hàng của Chiêm Thành chỉ điểm thuyền của vua Chế Bồng Nga, ông cho quân tập trung hỏa pháo nhằm bắn vào thuyền. Thuyền vua Chiêm trúng đạn, Chế Bồng Nga chết tại trận, quân Chiêm tan vỡ.

Đại Việt sử ký toàn thư chép chi tiết về trận chiến này: “Canh Ngọ, [Quang Thái] năm thứ 3 [1390], (Minh Hồng Vũ năm thứ 23). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 23, đô tướng Trần Khát Chân đại thắng quân Chiêm Thành ở Hải Triều, giết được chúa nó là Chế Bồng Nga. Khi ấy, Bồng Nga cùng với [17b] Nguyên Diệu dẫn hơn một trăm thuyền chiến đến quan sát tình thế của quan quân. Các thuyền giặc chưa tập họp lại, thì có tên tiểu thần của Bồng Nga là Ba Lậu Kê nhân bị Bồng Nga trách phạt, sợ bị giết, chạy sang doanh trại quân ta, trỏ vào chiến thuyền sơn xanh bảo rằng đó là thuyền của quốc vương hắn. Khát Chân liền ra lệnh các cây súng nhất tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền, Bồng Nga chết, người trong thuyền ồn ào kêu khóc. Nguyên Diệu cắt lấy đầu Bồng Nga chạy về với quan quân. Đại đội phó Thượng đô quân Long Tiệp là Phạm Nhũ Lặc và đầu ngũ là Dương Ngang liền giết luôn Nguyên Diệu, lấy cả đầu Bồng Nga. Quân giặc tan vỡ”[1]. Trần Khát Chân cho cắt đầu Chế Bồng Nga đem về báo tin thắng trận. Sau chiến công này, ông được phong làm Long Tiệp bổng thần Nội vệ Thượng tưống, tưốc Vũ tiết quan nội hầu.

Năm 1398, Hồ Quý Ly bắt vua Thuận Tông nhường ngôi cho thái tử mới 3 tuổi và có âm mưu thoán đoạt ngôi nhà Trần. Tướng Trần Khát Chân cùng Thái bảo Trần Nguyên Hàng và một số vương hầu nhà Trần mưu sát Hồ Quý Ly nhưng thất bại, ông và hơn 370 người liên quan bị giết và tịch thu gia sản. “Người đời truyền Khát Chân khi sắp bị hành hình, lên núi Đốn Sơn gào thét 3 tiếng, chết qua 3 ngày sắc mặt vẫn như khi sống, ruồi nhặng không dám bâu. Sau có hạn hán, cầu mưa thì ứng nghiệm ngay”[2]. Do ông là vị thượng tướng có công đánh giặc ngoại xâm, hết lòng trung thành với nhà Trần, nên được sử sách cùng nhân dân trân trọng và ca tụng. Tên ông được đặt cho một phố tại Hà Nội và cho một trường trung học phổ thông tại huyện Vĩnh Lộc quê hương ông. Việc Trần Khát Chân được thờ tại đình Khuyến Lương cũng là biểu hiện lòng yêu mến và trân trọng của nhân dân đối với nhân vật lịch sử này.

Ngôi đình được xây dựng theo hướng Đông nam, kết cấu chính kiểu chữ đinh với Đại bái và Hậu cung. Đại bái 5 gian lớn, theo kiểu tường hồi bít đốc, các bộ vì được kết cấu theo các kiểu thức: vì kèo; giá chiêng chồng rường, bẩy hiên ván mê. Các cấu kiện gỗ được trang trí hình rồng và hoa lá cách điệu. Đặc biệt là các đầu dư được tạo tác hình đầu rồng theo nhiều dáng vẻ khác nhau, có đầu dư chạm đầu rồng với đuôi hất thẳng về phía sau chạy vào thân cột, có đầu dư thể hiện râu tóc xoắn vào nhau như hình số 8, đuôi hất ngược ra sau, để lộ thân rồng hình thân trúc… về cơ bản chạm khắc ở đây là chạm lộng, chạm bong kênh, chạm nổi miệng rồng ngậm viên ngọc to tròn. Ngoài ra, các bức cốn ở xà nách chạm nổi hình tượng tứ linh, mây lá cách điệu,… “Đình Khuyên Lương còn lưu giữ được nhiều di vật quý như 10 đạo sắc phong của các triều Lê, Nguyễn; 02 tấm bia đá; 03 hương án gỗ được sơn thếp; 06 đôi câu đối gỗ; 04 hoành phi gỗ; 03 bộ kiệu gỗ được sơn thếp; 02 bộ bát bửu; 01 đôi hạc thờ bằng gỗ thời Lê rất lớn cùng nhiều đồ thờ tự khác như chân nến, lọ hoa, đài nước,…”[3]. Tất cả đã góp phần tạo nên giá trị to lớn cho ngôi đình, khẳng định bề dày lịch sử của di tích. Không chỉ là một di tích thờ tự thần Thành hoàng làng, đình Khuyến Lương còn là một địa chỉ đỏ trong kháng chiến cứu quốc. Đây chính là một trong những cơ sở hoạt động của Đảng, nơi liên lạc hội họp của cán bộ du kích quận VI trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Làng Khuyến Lương cũng đã đón Bác Hồ về thăm và chúc Tết, động viên nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất. Đó là ngày mùng 1 Tết Tân Sửu, tức ngày 15-02-1961.

Đình được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích ngày 13-10-1996.

Chùa Khuyến Lương

Vị trí địa lý

Cách không xa ngôi đình là chùa Khuyến Lương, tên chữ là Diên Phúc Tự, tọa lạc tại thôn Khuyến Lương, xã Trần Phú, huyện Thanh Trì nay là tổ 10, phường Trần Phú, quận Hoàng Mai, ngoại thành Hà Nội.

Lược sử

Theo lời kể của nhân dân địa phương, ngôi chùa có niên đại khởi dựng sớm, từ thời Lê, chùa rất nổi tiếng trong vùng. Đến năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730), dân làng đã hưng công xây thêm gác chuông và cột đá trước chùa. Việc này được ghi lại trên cây hương đá “Thạch trụ hương” dựng vào chính năm Vĩnh Khánh 2 hiện còn lưu tại di tích.

Cuối thế kỷ XVIII, chiến tranh và binh hoả kéo dài. Năm 1786, Vua Lê Chiêu Thống theo lời tâu của Nguyễn Hữu Chỉnh lại cho thu vét chuông đồng, tượng đồng ở các chùa đền đều lấy đồng về đúc rèn vũ khí đã khiến quả chuông đúc năm Vĩnh Khánh 2 bị sung công. Đến năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), nhà sư trụ trì đã cùng dân làng đóng góp tiền của và công đức thập phương để đúc lại chuông chùa, với tên “Diên Khánh tự chung”. Bài minh trên thân chuông còn ghi lại rõ câu chuyện về việc đúc chuông này. Sau 18 năm đúc chuông, các quan viên, hương lão cùng thiện nam tín nữ thôn Khuyến Lương đã đóng góp tiền của và vận động thập phương công đức được 340 quan 8 mạch tiền kẽm đúc chiếc khánh lớn, hiện treo ở nhà Mẫu của chùa. Theo bài minh khắc trên khánh thì nhiều người dân ở các nơi xa cũng đóng góp tiền của vào việc đúc khánh, như vợ chồng quan phủ Nam Sách (Hải Dương) là Vũ Văn Hoa đã công đức một quả chuông giá 40 quan để làm nguyên liệu đúc khánh. Đến năm Bảo Đại thứ 11 (1934), chùa Diên Phúc được trùng tu lớn khu chùa chính, tốn kém nhiều tài vật.

Trong những nám kháng chiến chống Pháp, ngôi chùa đã bị phá hoại nhiều lần, về sau nhân dân đã đóng góp công của để trùng tu. Dáng vẻ kiến trúc hiện nay là sản phẩm của lần trùng tu gần đây nhất những năm 2007-2009. Dẫu vậy, di tích vẫn bảo lưu được những dấu tích kiến trúc xưa, đồng thời được quy hoạch tốt các hạng mục phụ trợ, phục vụ tích cực cho nhu cầu tôn giáo, tín ngưỡng lành mạnh của nhân dân.

Kiến trúc

Chùa có quy mô kiến trúc lớn, đa dạng gồm 2 lần cổng vào, khu chùa chính, khu nhà Mẫu, nhà Tổ, hai dãy hành lang, vườn tháp, hồ nước và một số công trình phụ trợ khác. Tất cả nằm ẩn hiện trong khu vườn cây xanh tốt bao quanh. Để vào đến chùa chính phải qua hai lần cổng, với các lối đi dài. Cổng trong được thiết kế khá đồ sộ với hai tầng, các mảng đắp vẽ trang trí dày đặc các đề tài truyền thống như tứ phượng chầu, tứ linh, tứ quý, hình tượng thầy trò Đường Tăng đi lấy kinh, các đôi câu đôi chữ Hán,… Qua cổng là khoảng sân rộng rồi đến chùa chính.

Chùa chính có quy mô kiến trúc lốn kiểu chữ đinh với Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện. Toà Tiền đường có diện tích lớn với 5 gian 2 dĩ, hai tầng bốn mái, tường hồi bít đốc, tay ngai trụ biểu. Chính giữa bờ nóc đắp một cuốn thư, lòng cuốn thư đề chữ Hán tên chữ của chùa là “Diên Phúc tự” (chùa Diên Phúc). Bộ vì bên trong được làm thống nhất kiểu “thượng giá chiêng, hạ kẻ chuyền, bẩy hiên”. Nền Thượng điện được tôn cao khoảng 40cm so với sân, nối cột các gian có các bức cửa võng lớn chạm thủng những đề tài truyền thống, sát tường hậu xây những bệ gạch cao để đặt tượng thờ. Thiêu hương và Thượng điện được nối liền nhau tạo thành nếp nhà dọc với 4 gian, nối từ gian chính giữa Tiền đường. Hạng mục này cũng được làm theo kiểu hai tầng mái với 4 mái chảy lợp ngói ri. Bộ vì đỡ tầng mái trên có kết cấu theo kiểu chồng rường, giá chiêng, đỡ mái dưới là một kẻ cong dài, trên kẻ là các ván gỗ dày đỡ các dải hoành. Lòng Thượng điện khá rộng, khoảng giữa hai hàng cột xây những bệ gạch cao dần làm nơi bài trí tượng phật, hai bên hẹp hơn để trống làm chỗ chay đàn. Ở vị trí cao nhất trên Thượng điện là Tam thế phật, tiếp đến là tượng phật A-di-đà cùng nhị vị Bồ Tát; tượng Thích Ca niêm hoa cùng các thị giả; tượng Cửu long và Thích ca sơ sinh. Ngoài Tiền đường có tượng Hộ pháp Khuyến Thiện – Trừng Ác và Đức Ông, Thánh Tăng. Hệ thống tượng này được tạo tác theo phong cách truyền thống, có niên đại thê kỷ XVIII – XIX. Đây vừa là những chủ thể thờ tự, vừa mang những giá trị điêu khắc, nghệ thuật quan trọng đối với ngôi chùa. Phía sau chùa chính là nhà Tổ và nhà Mẫu, được thiết kế theo dạng kiến trúc truyền thống. Nhà Mẫu có tượng Mẫu, nhà Tổ với một số tượng các vị sư trụ trì chùa, có nhiều công lao đối với việc duy trì tông phái thờ tự. Trong khuôn viên di tích còn có khu tháp mộ sư, hai hồ nước nhỏ cùng rất nhiều cây xanh. Không gian thoáng đãng, xanh mát của di tích tạo nên một giá trị đặc biệt cho việc tĩnh tâm tu dưỡng.

Di vật

Di vật trong chùa còn 7 bức cửa võng, 6 bức y môn, 1 bia dựng năm 1839, 32 pho tượng Phật giáo, 5 bức hoành phi và 9 câu đối. Những pho tượng trên được sắp đặt theo hệ phái Bắc tông và tạo tác vào thế kỷ XVIII – XIX, mang đậm phong cách nghệ thuật cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn. Những pho tượng bên ngoài vườn đều mới được làm gần đây.

Xếp hạng

Chùa đã được công nhận là Di tích Lịch sử – Văn hóa năm 1996.

Cụm di tích đình – chùa Khuyến Lương ngoài ý nghĩa về mặt văn hóa tâm linh, còn là nơi thể hiện sự suy tôn của nhân dân địa phương đối với bậc dũng tướng trung nghĩa, anh hùng, có công lao to lớn với dân với nước, là minh chứng cho truyền thống tốt đẹp trân trọng quá khứ, uống nước nhớ nguồn của nhân dân ta.

 Chú thích

[1] Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Phan Sĩ Liên, Đại Việt Sử ký toàn thư, Bản Kỷ, quyển VIII, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Nxb Khoa học xã hội, 1993, tr. 282.

[2] Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Phan Sĩ Liên, Đại Việt Sử ký toàn thư, Bản Kỷ, quyển VIII, Sđd, tr. 294.

[3] TS Nguyễn Doãn Tuân (Chủ biên), Di tích lịch sử văn hóa quận Hoàng Mai, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2010, tr. 274.

Tài liệu tham khảo
– Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Phan Sĩ Liên (1993), Đại Việt Sử ký toàn thư, Bản Kỷ, quyển VIII, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Nxb Khoa học xã hội.

– TS Nguyễn Doãn Tuân (Chủ biên), (2010), Di tích lịch sử văn hóa quận Hoàng Mai, Nxb Văn hóa – Thông tin.

Nguồn 

Bình luận của bạn

Tin khác