Chùa Pháp Hoa (Hai Bà Trưng – Hà Nội )

Thứ 6, 07/02/2025, 23:05 (GMT+7)

Chia sẻ

Vị trí – Tên gọi

Chùa Pháp Hoa thuộc phố Trần Bình Trọng, phường Nguyễn Du, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tấm bia khắc năm thứ 12 niên hiệu Tự Đức (1860) ghi việc dân làng Pháp Hoa góp tiền của xây dựng chùa vào năm 1860.

Lược sử

Cuối thế kỷ XIX, khu vực Cụm di tích Thiền Quang – Quang Hoa – Pháp Hoa tọa lạc tại thôn Liên Đường, thuộc tổng Vĩnh Xương, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, Hà Nội, đặc trưng bởi hồ Liên Thủy chiếm phần lớn diện tích của thôn.

Theo tấm bia “Quang Hoa Tự thập phương bi,” ba chùa xưa ban đầu nằm ở thôn Quang Hoa, tại phía Tây làng Thiền Quang, hiện đang thuộc khu vực Công viên Thống Nhất. Một tấm bia khác tại chùa niên đại Tự Đức thập nhị niên (năm thứ 12-1860) ghi chép về việc cộng đồng làng Pháp Hoa đóng góp tiền để xây dựng chùa trong năm 1860.

Vào khoảng năm 1933-1934, thời kỳ thực dân Pháp, cư dân ba làng Quang Hoa – Pháp Hoa – Thiền Quang đã bị di dời. Sau di dời, chỉ đủ vật liệu để xây dựng 2 chùa là Thiền Quang – Quang Hoa, với Chùa Quang Hoa phục vụ cho cả hai làng Quang Hoa và Pháp Hoa.

Trong giai đoạn từ 1928 đến 1940, theo kế hoạch quy hoạch thành phố, khu vực này trải qua quá trình mở rộng và xây dựng. Hồ Liên Thủy được chia đôi bởi một con đường mới. Bờ Bắc hồ được lấp đầy, còn bờ Đông và bờ Tây được chỉnh sửa tạo thành hồ nhỏ mang tên hồ Thiền Quang. Các công trình kiến trúc, trong đó có một số ngôi chùa xung quanh hồ Liên Thủy, đã bị di chuyển và tập trung ở phía Tây của hồ Thiền Quang. Trong số đó có chùa Thiền Quang, Quang Hoa và Pháp Hoa.

Năm 1951, do mâu thuẫn giữa hai làng, cư dân làng Quang Hoa nhận được chùa là của làng mình. Dân làng Pháp Hoa yêu cầu chính quyền Pháp cho phép xây chùa riêng. Chính quyền Pháp giải quyết mâu thuẫn bằng cách tách 2 dãy nhà phụ 3 gian của chùa Quang Hoa để cung cấp cho cư dân làng Pháp Hoa, và bức tường ngăn cách giữa hai chùa Quang Hoa và Pháp Hoa được xây dựng từ đó.

Kiến trúc

Theo bảng biển “Quang Hoa thiền tự sự tích bi ký” trong niên đại Tự Đức (1866), Chùa Quang Hoa là một ngôi chùa cổ lâu, thời điểm xây dựng không rõ ràng. Ban đầu chỉ là một am nhỏ được tu bổ nhiều lần, chùa ngày càng được mở rộng và trở nên sang trọng. Được xây dựng hướng Nam, chùa này có quy mô impon nổi với Tiền đường gồm 7 gian và Thượng điện gồm 5 gian, phía sau là 10 gian nhà Tổ và nhà Mẫu. Hai bên là hai dãy nhà Khách. Một vườn tháp được quy hoạch nằm xen kẽ giữa các sân rộng và cây xanh. Giá trị nổi bật của Chùa Quang Hoa tập trung chủ yếu vào trang trí kiến trúc và sưu tập cổ vật được bảo quản tại chùa. Những bức y môn, bức cốn được chạm trổ rất tinh tế với các đề tài như tứ linh, trúc lão, hoa văn thực vật, kết hợp với nghệ thuật chạm nổi và chạm thủng tỷ mỉ đến từng chi tiết, đã biến những họa tiết trang trí sơ bình thành những tác phẩm nghệ thuật, tạo nên những điểm nhấn đặc biệt trên cấu trúc kiến trúc.

Chùa Thiền Quang, với quy mô khiêm tốn hơn, được tách biệt bằng một tường lửng. Chùa này hướng về phía Tây, khuôn viên và kiến trúc đơn giản. Phía sau chùa vẫn còn hai tháp mộ của các nhà sư trụ trì đã viên tịch. Giá trị chính của Chùa Thiền Quang tập trung vào hệ thống tượng tròn thông qua nghệ thuật tạc tượng của các nghệ nhân xưa.

Chùa Pháp Hoa chỉ có một gian thờ chính, với số lượng tượng phật khiêm tốn và đang trong quá trình tu sửa.

Di vật

Hệ thống tượng phật tại Chùa Quang Hoa được mô tả trong tấm bia “Quang Hoa thiền tự sự tích bi ký” là một bản di tích phong phú, đặc sắc và đầy đủ các nhân vật quan trọng trong Phật giáo Đại thừa. Theo bia này, các pho tượng chủ yếu được tạo ra vào đầu thế kỷ 19, với những tác phẩm nổi bật như bộ tượng Tam Thế, Di Đà Tam Tôn, Hoa Nghiêm Tam Thánh. Những tượng này được thể hiện rất đặc trưng theo các quy chuẩn tạo tượng mà vẫn giữ được sự sinh động.

Hệ thống bảng bia đá trong chùa cũng rất đa dạng và phong phú. Trong đó, có những tấm bia cổ như niên đại Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), Minh Mệnh năm thứ 6 (1825), Minh Mệnh năm thứ 12 (1831), cũng như các bia của Tự Đức năm thứ 19 (1866), Tự Đức năm thứ 34 (1882), bia Bảo Đại (1938)…

Dù vì biến động của lịch sử mà Chùa Quang Hoa không giữ được đầy đủ số lượng pho tượng như trước đây, những tượng còn lại đều mang giá trị lịch sử và nghệ thuật cao. Trong số đó, pho tượng Bồ Tát và Di Đà phát quang đặc biệt nổi bật, mang phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18. Tổng thể, đây là những tác phẩm điêu khắc nghệ thuật đẹp, đậm tính chất nghệ thuật.

Sự kiện – Thành tựu

Năm 1989, chùa được bộ Văn Hóa và Thông tin xếp hạng Di tích thắng cảnh.

Hiếm có nơi nào mà trên cũng một khuôn viên không lớn lắm, cùng một lúc có 3 ngôi chùa độc lập. Sự tồn tại của các ngôi chùa này cũng là nguồn tư liệu góp phần tìm hiểu lịch sử Thăng Long – Hà Nội.

Nguồn

Bình luận của bạn

Tin khác