Ảnh: Nữ cứu thương tại mặt trận Hà Nội 1946.
Tôi muốn nói đến một số người cùng khổ đã trực tiếp tham gia kháng chiến chống Pháp năm 1946 ở Liên khu III Hà Nội (nay thuộc phạm vi quận Đống Đa). Họ còn sống hay đã hy sinh, không ai nhắc đến.
- Đó là các em nhỏ mồ côi được nuôi dưỡng ở trại Bảo Anh (nay là trụ sở Hội người mù, 135 Nguyễn Thái Học). Trước ngày Toàn quốc kháng chiến, một số em đã được gửi đến các đoàn thể, cơ quan và nhất là các đơn vị quân đội để làm liên lạc viên.
- Đó là những người nghèo sống ở khu vực sau ga Hà Nội, làm đủ các thứ nghề như bốc vác, đi ở làm thằng nhỏ, con sen, kéo xe. Họ cũng đã ở lại tham gia kháng chiến ở Liên khu III Hà Nội.
- Đó là các cô đầu ở phố Khâm Thiên. Họ cũng ở lại chiến đấu cùng với các đơn vị quân đội và tự vệ thuộc Liên khu III.
Họ đều là những bạn thân của tôi. Bởi từ những năm 1944, 1945, 1946 tôi đã nuôi dạy các em mồ côi ở trại Bảo Anh. Tôi đã dạy Truyền bá quốc ngữ (sau Cách mạng tháng Tám đổi thành Bình dân học vụ) trước còn tổ chức và dạy ở các xã ngoại thành. Sau Cách mạng tháng Tám được mở lớp Bình dân học vụ ngay ở nhà Tế Sinh (cũng là nhà nuôi trẻ em nghèo của cụ Cả Mọc). Các học viên ở lớp học này là bà con lao động ở khu vực sau Ga Hà Nội. Tôi cũng dạy một lớp Bình dân học vụ đặc biệt nhất, mà học viên toàn là chị em cô đầu ở phố Khâm Thiên.
Sau ngày 19-8-1945, tôi vào bộ đội, làm việc ở Cục Quân y. Bộ Quốc phòng. Theo chế độ sinh hoạt của sĩ quan nên buổi tối và ngày chủ nhật tôi không phải ở tập thể mà vẫn được về ở nhà mình, nên vẫn có điều kiện tiếp tục công việc ở khu phố.
Từ 19-12-1946, cơ quan rút lên Việt Bắc, tôi được tuyển làm liên lạc viên đặc biệt, nên thỉnh thoảng cũng có việc phải vào mặt trận Hà Nội, do đó lại có dịp được đi qua đất Liên khu III đang tác chiến và được gặp lại một số bạn bè.
Ở đây tôi kể chuyện về mấy chị em làm nghề hát ả đào ở phố Khâm Thiên. Năm 1946 tôi đang dạy ở lớp Bình dân học vụ nhỏ trong nhà Hội Tế sinh (ngõ Sinh Từ) thì chị Quỳnh Vân bạn của tôi (sau là vợ anh Vũ Quang), là cán bộ phụ nữ khu vực nhờ tôi thu xếp dạy thêm cho một lớp ở phố Khâm Thiên, mà phải dạy buổi trưa, vì học viên toàn là cô đầu. Tối họ còn bận.
Buổi khai giảng cái lớp này cũng thật là đặc biệt. Học sinh bợm trạo, bát nháo, không chút gì nghiêm túc. Một vài học sinh có giấy bút, còn một số đến người không, mà số này quấy phá nhất. Vì không phải là buổi tiếp khách, họ mặc áo cánh quần dài trắng nhầu bẩn, mỏng manh. Thời ấy xem là "khó coi".
Sau mấy lời khai mạc, chị Quỳnh Vân giới thiệu hai giáo viên và một chị cũng là cô đầu làm trưởng lớp. Tôi định nói vài lời để bắt đầu buổi học, thì có một chị táo tợn nói to: Anh giáo cho em hỏi: anh có dạy chữ "sờ em xem" không?
Tôi lặng đi một lúc để cơn cười lắng xuống.
- Có đấy các chị ạ. Chỉ độ một tuần hay mười hôm nữa, các chị sẽ học đến.
- Ấy chết, thầy lại gọi trò là chị thì dạy làm sao được. Có ai gọi chúng em là chị bao giờ.
- Không đâu, chúng tôi thực sự coi các chị như các chị em các lớp khác. Những người lớn tuổi chưa biết chữ đến lớp học, chúng tôi quý mến và nhiệt tình giúp đỡ. Cuộc đời xô đẩy các chị vào cảnh làm ăn như vậy chắc không phải tự mình thích thú mà tìm đến chốn này.
Không còn ai nói, cả lớp trầm xuống.
Tôi nói vài lời nghiêm túc, chân thành mong muốn mọi người chịu khó học tập để được sáng mắt, sáng lòng.
Thế rồi, lớp học ấy cũng như các lớp khác, mọi người duy trì nền nếp học tập tốt. Chúng tôi suy nghĩ tìm tòi nhiều cách để cho bài học có sức hấp dẫn, học viên không chán, không bỏ lớp. Chúng tôi kể chuyện, đọc thơ, ca dao, có khi vận động học viên hát dân ca, ngâm Kiều. Có khi đố học viên nói lên trong truyện Kiều, có đoạn nào tả cảnh đẹp như tranh vẽ.
Khi học đến bài có vần au, âu, tôi viết lên bảng cả câu:
Bán hàng ăn những chũm cau,
Chồng con có biết cơ mầu này không?
Hay trong bài có vần anh, tôi viết:
Xây nhà mà ở lều tranh nát,
Dệt lụa quanh năm áo chẳng lành.
Tuy học viên chưa đọc được, họ xúc động vì hợp cảnh mình, và cũng thấy mình sẽ tự đọc được, viết được những câu hay như thế. Cách giảng dạy này khuyến khích và gây ấn tượng mạnh đối với họ.
Bên cạnh những vấn đề thanh toán nạn mù chữ, giáo viên còn có trách nhiệm giúp học viên giác ngộ chính trị, nâng cao hiểu biết về chế độ xã hội mới, từ bỏ thói hư tật xấu. Sửa đổi lối sống cũ, sống có văn hoá, không tự ti mặc cảm, mạnh dạn tham gia các buổi họp với tổ dân phố, làm các công tác xã hội ở địa phương...
Tiếc thay, từ tháng 11-1946, tình hình Hà Nội căng thẳng, nhân dân và cơ quan tản cư nhiều. Các lớp bình dân học vụ tan rã. Học viên cũng cho gia đình về quê, ai khoẻ mạnh ở lại làm thuê, vào tự vệ, cứu thương, đào đường đắp ụ. Có nhiều chị cô đầu cũng ở lại.
Tôi không còn lớp học Bình dân học vụ thì giúp Hội Phụ nữ Hàng Bột đào tạo cấp tốc lớp cứu thương tháo vát của anh em Hướng đạo như mang vác người bị thương không cần cáng, cố định vết thương gẫy xương v.v... đề phòng khi ở mặt trận không sẵn hộp thuốc và dụng cụ như ở bệnh viện.
Từ 19 tháng 12 nội thành đang đánh nhau. Từ ngoài liên lạc vào mặt trận gặp nhiều khó khăn. Một hôm có công tác, tôi phải đi từ Việt Trì, qua Chèm, Ngã Tư Sở sang đường số 1. Qua Ngã Tư Sở tìm tổ liên lạc để xin người dẫn đường. Chiều muộn tôi đang phân vân tìm đường, bỗng thấy một chị mặc măng tô tím dài, quần buộc túm, tay cầm thanh kiếm Nhật. Biết là tự vệ, tôi đi về phía chị. Chị cũng chú ý đến tôi, thấy cũng áo quần bộ đội, có mang súng ngắn. Chị yên tâm và hỏi xem giấy tờ. Chị đọc còn chậm, một lúc hân hoan ngửng mặt nhìn tôi: "A, anh Kỳ, anh Kỳ! Anh là bộ đội à, thích nhỉ. Bọn chúng em cũng xin được vào tự vệ ở đây. Anh vào trạm đi, có mấy đứa trước cũng học anh đấy. Rồi chúng em sẽ dẫn anh đi đường tắt, vừa nhanh vừa an toàn". Trong trạm cũng có nhiều anh chị tự vệ chiến đấu, riêng mấy chị học viên cô đầu rất vui mừng khi gặp lại tôi. Các chị mời tôi cùng ăn để được nói chuyện nhiều. Tôi hỏi sao các chị không tản cư? - "Chúng em còn biết về đâu, có chuyện không hay mới phải bỏ làng, ra đây lại sống cuộc đời nhơ nhuốc, còn mặt mũi nào trở về làng cũ. Chúng em cũng liều sống chết ở đây thôi. Các anh bảo làm gì thì chúng em làm".
Nghe các chị tâm sự, lòng tôi bùi ngùi thương cảm. Các chị chịu chết ở đây còn hơn về làng chịu nhục, đơn giản thế thôi.
Lúc chia tay, chúng tôi bịn rịn, nghĩ chắc không có ngày gặp lại. Hai chị dẫn tôi qua Khương Thượng, xa khu sân bay, tới đường 1 rồi các chị chỉ đường tới nơi tôi cần đến. Lúc chào tôi các chị nghẹn ngào muốn khóc, muốn ôm tôi thân mật. Tôi cũng tần ngần nhìn theo hai chị quay về, vai vác kiếm khuất dần vào bóng tối.
Ngày nay, người ta cũng đã nhắc nhở đến các anh chị giao liên, thanh niên xung phong, với những công lao, thành tích, cuộc sống gian khổ, cảnh hy sinh anh dũng của họ. Nhưng chưa thấy ở đâu nói đến các chị cô đầu ở Hà Nội. Chỉ một lần nói đến chị "me tây" trong vụ đánh chìm tàu Ami-Ô Đanh vilơ.
Cho đến bây giờ, tôi vẫn thường nhớ đến các bạn nghèo của mình - Tôi trăn trở một điều là các người ấy khi lập công hay khi bị hy sinh, có ai ghi công hay báo tử cho họ không. Giấy tờ gửi về đâu và báo cho ai.
(Trích sách "Cuộc chiến đấu của Liên khu III - Đống Đa - Quận V Hà Nội")
Nguyễn Khắc Kỳ
Nguyên Giám đốc Nhà in Diên Hồng
Bình luận của bạn