Kỳ Nhân dưới mái vòm Ô Quan Chưởng

Thứ 7, 25/02/2023, 09:50 (GMT+7)

Chia sẻ

Uông Triều

Ô Quan Chưởng xứng đáng là điểm nhấn đặc biệt của Hà Nội. Vì kinh thành Thăng Long xưa kia có đến mười mấy cửa ô mà giờ chỉ sót lại duy nhất cửa ô này. Chỉ riêng việc trụ lại với thời gian với bao biến cố, thăng trầm đã đủ thấy nó có ý nghĩa thế nào. Vẫn còn một Ô Quan Chưởng cổ kính để hoài niệm : cửa ô có lính gác hai bên, sáng mở cửa, tối đóng cửa bằng tiếng trống thu không buồn man mác …

332513273-1250341705569799-3860891979768998375-n-1.jpg

Ô Quan Chưởng mang trong mình nhiều huyền thoại. Của ô tên chính thức là Đông Hà, và cái tên này giờ vẫn được lưu giữ bởi ba chữ Nho đắp nổi trên cổng chính. Tên chính thống là thế nhưng cách gọi dân gian lại có sức mạnh của riêng mình, cửa Đông Hà trên phố Hàng Chiếu xưa đã trở thành Ô Quan Chưởng, phố Ô Quan Chưởng ngày nay.

Tìm lại lịch sử thì có vài giả thuyết về cái tên Ô Quan Chưởng, nhưng có lẽ giả thuyết về một viên Chưởng cơ với những nghĩa sĩ, đã chiến đấu anh dũng chống lại quân giặc Pháp trong đợt chúng đánh vào thành Hà Nội năm 1873, được nhiều người đồng tình nhất. Vị Chưởng cơ này cùng với khoảng 100 đồng đội đã quyết chiến với quân giặc Pháp đến cùng. Sau vì đuối thế, vị Chưởng cơ bị bắt, bị chém bêu đầu ngay bến đò sông Hồng. Nhân dân tiếc thương, gọi cửa ô là Quan Chưởng để ghi nhớ sự hi sinh lẫm liệt của người con trung dũng.

Ô Quan Chưởng giờ đã bạc màu thời gian, những buổi chiều muộn đi qua như thấy một lớp bụi thời gian đã phủ lấp ở nơi này. Những viên gạch xây tường có chỗ đỏ lậm vì sương gió, những kẽ gạch thỉnh thoảng lấm chấm màu xanh của dương xỉ bám vào; và cái cổng gỗ xưa, dù đã được khôi phục nhưng không phải để đóng cửa mỗi chiều bảng lảng khi tiếng trống thu không nữa. Nó đứng đó, lặng lẽ và hồi nhớ những nhân vật kì lạ đã từng sống ở quanh đây.

Nhà văn Nguyễn Tuân kể rằng, ở cửa ô này ngày trước, sáng nào cũng có một ông già nghiện rượu ngồi. Ông ngồi từ sáng sớm khi hơi sương mờ mờ chưa rõ mặt người. Ông nghiện rượu nhưng không có tiền mua rượu, thế là ông kiên nhẫn chờ đợi những cô hàng rượu gánh rượu đi qua lối cửa ô vào trong thành. Gia tài của ông là một cái ghế gỗ, một cái chén gỗ và bộ quần áo sòng sòng.

Ông già có một mánh khoé nhỏ mà về sau các cô bán rượu từ vùng Bồ Đề, Long Biên bên kia sông mới biết. Ông muốn mua rượu và đòi nếm thử. Các cô hàng rót rượu cho ông vào cái chén gỗ, ông nhấp qua một chút rồi bảo, rượu nhạt, không mua được. Chẳng nhẽ lại cãi nhau với một ông già, các cô không thèm chấp và quẩy gánh hàng đi cho kịp chợ. Còn ông già, giờ mới thưởng thức chén rượu thơm lừng bằng một cách độc nhất vô nhị. Ông chấm cái đinh đóng thuyền vào chén rượu rồi mút chụt một cái. Và cứ thế, nhẩn nha cảm nhận hơi cay, vị ấm của thứ rượu vùng Bồ Đề nổi tiếng.

Một cô hàng rượu, hai cô hàng rượu, ba cô hàng rượu, … Cô nào cũng bị ông già dùng cái mánh khoé ấy để uống rượu không mất tiền. Cũng chả giận ông được vì khi vặc lại, thì ông bảo rằng ông không có tiền mua rượu, các cô bớt đi một chén rượu cho ông uống đã sao. Mà các cô hàng rượu nghiệm rằng, hôm nào các cô cho ông nếm thử chén rượu, thì hôm đó đắt hàng, nên các cô không cần ông đòi hỏi nữa mà tự nguyện rót luôn cho ông một chén, hoặc cho ông một be rượu nhỏ chuẩn bị sẵn từ nhà. Không ai biết ông tên gì, chỉ vì cái thói quen uống rượu kiểu này ở cửa ô mà các cô gọi ông là “Bố Ô”.

Bố Ô, cái tên mới thân thương và trìu mến làm sao. Có người bảo ông là người trần, có người bảo không phải, ông là một sứ giả nào đấy của nhà trời xuống để thử lòng người đời, … Tôi cứ tự hỏi, nếu Bố Ô vẫn còn sống đến hôm nay để thưởng thức cút rượu thơm phức ấy, và nhâm nhi miếng chả rươi ở nhà hàng ngay đối diện cửa ô thì sao nhỉ ? Chỗ cái cửa ô cổ kính này giờ đã thành nơi ẩm thực nổi tiếng. Toả đi từ cửa ô này là phố Ô Quan Chưởng, phố Hàng Chiếu, phố Thanh Hà, phố Đào Duy Từ, mà phố nào cũng nức tiếng bởi những hàng ăn ngon. Nào là món bánh rán bi tí xíu, nào là miếng chả rươi tròn xoe thơm lừng có quanh năm; … chen chúc gần đấy là một hàng bún ốc nguội độc đáo, bên cạnh là hàng cháo lòng chần nức tiếng vì thứ lòng tươi và cách chế biến đặc biệt của mình; … Đứng giữa cái chỗ ngã tư đó, ngồi hàng ăn nào cũng có thể ngắm được cái cửa ô cổ kính ở một tầm rất gần. Ăn một món ngon, lại được ngắm nhìn, hồi tưởng lịch sử qua cái cửa ô duy nhất còn lại của đất Thăng Long, ai mà chả nào nao một cảm giác bâng khuâng.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thì kể về một nhân vật cũng liệt vào hàng kì nhân ở đây. Đó là cụ Nguyễn Hữu Mão nhà ở số 7 phố Ô Quan Chưởng. Có lẽ xưa nay không ai yêu thơ và làm nhiều thơ như Cụ. Thơ Cụ không tính bằng bài mà tính bằng cân, bằng tạ. Ngày Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, người dân Thủ đô phải bồng bế nhau đi tản cư, ai cũng cố mang theo những vật dụng cần thiết, quý giá nhất, riêng cụ Mão, Cụ ung dung gánh một gánh thơ mang đi tản cư vì đối với Cụ, thơ … mới là thứ quý giá nhất.

Nhưng Cụ có một ưu phiền nho nhỏ : trong số gần chục người con chỉ có anh con trai thứ ba là người duy nhất làm thơ, mê thơ như bố. Có người bảo thơ Cụ hay hơn thơ anh con trai, người khác thì bảo thơ anh con trai hay hơn thơ Cụ. Và Cụ cứ băn khoăn mãi không biết thơ ai hay hơn. Lúc ốm nặng, Cụ gọi anh con trai mê thơ đến và hỏi :

– Anh phải nói thật, thơ anh và thơ tôi, anh thấy thơ ai hay hơn ?

Anh con trai lúc đó mới nhìn người cha già đầy xúc động và trả lời :

– Vâng, thưa bố ! Chắc chắn là thơ bố hay hơn rồi !

Cụ Mão ngay lập tức mắt rạng rỡ ngồi dậy và bảo :

– Như thế là anh báo hiếu đủ cho tôi rồi ! Từ giờ tôi sẽ tha thứ hết những lỗi lầm của anh …

Đó không phải sự hư cấu của nhà văn, mà sau này chính nhà thơ Nguyễn Bảo Sinh, người con trai thứ ba của cụ Mão đã kể lại cho tôi chuyện này, và hiện tại ở phố Ô Quan Chưởng, một người con của cụ Mão vẫn đang sống ở đó.

Phố Ô Quan Chưởng giờ vẫn là một trong những lối đi chính từ phía tả ngạn sông Hồng vào trong nội thành. Những ai từng qua nơi đây, có biết chăng những câu chuyện lịch sử, mùi thời gian và một lớp vàng son quá khứ dường như đã đọng lại đâu đó trên mái cửa ô huyền thoại này.

( Trần Quang Dũng trích sách HÀ NỘI – QUÁN XÁ PHỐ PHƯỜNG – Nhà xuất bản Văn học và Công ti Cổ phần Văn hoá Truyền thông Sống – Năm 2018)

***

Tranh màu nước của hoạ sĩ Phong Hoàng

Bình luận của bạn

Tin khác